Bản thảo một tiểu luận: Giá trị của nghề thủ công và làng nghề (7)
b-5- TÔI CẦN NHỮNG GÌ KHI TÌM HIỂU VỀ GIÁ TRỊ CỦA NGHỀ THỦ CÔNG:
Một trong những câu hỏi nảy sinh trong tôi trong quá trình tìm hiểu là: làm thế nào để chúng ta có thể hiểu về giá trị của nghề thủ công truyền thống khi có quá nhiều nghề trong xã hội mà xưa gọi là “tứ dân bách nghệ” và vì đa số các biểu hiện văn hóa phi vật thể là trừu tượng, chúng ta không biết dùng cách gì để kiểm đếm chính xác hoặc xác định rõ ràng được giá trị của mỗi nghề. Đây là câu hỏi phổ biến mặc dù nghề thủ công truyền thống với biểu hiện của chúng vẫn tồn tại trong đời thường như một phương tiện mưu sinh của người dân và ngay cả trên bàn ăn hàng ngày trước mắt mỗi người.
![]() |
Sản phẩm thổ cẩm truyền thống của người Mạ ở xã Tà Lài (huyện Tân Phú), ảnh TTKC Đồng Nai |
Tôi đã tặng cho một cô giáo tiểu học bộ sách “Làng nghề Việt Nam – Miệt mài cuộc hàng trình di sản”. Một tháng sau gặp lại, cô nói rằng bộ sách đã giúp cô trong việc chuẩn bị luận văn để lấy bằng thạc sĩ về môn dạy thủ công trong nhà trường. Tuy nhiên nhiều điều cô còn cần phải tìm hiểu thêm vì chủ đề này quá rộng lớn mà tài liệu thì hiếm, cô ấy nói. Đúng vậy, mặc dù các giá trị về văn hóa phi vật thể, trong đó có nghề thủ công được các thành viên Liên hiệp quốc thống nhất thông qua bằng một công ước có tầm ảnh hương rộng lớn - Công ước về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể vào năm 2003. Nhưng để hiểu về những gì diễn ra đằng sau Công ước này vẫn là đề tài hấp dẫn, thu hút các nhà nghiên cứu văn hóa tên tuổi.
Cũng như tôi, khi bắt đầu viết, chủ đề của tiểu luận này thoạt nhìn có vẻ đơn giản, dễ viết nhưng khi viết đến đây, tôi cảm thấy có điều phân vân, ngần ngại. Liệu những gì mình viết ra với thái độ phê bình có va đập với những hiểu biết, quan điểm cố cựu về nghề thủ công của nhiều người hay không, đồng thời viết như thế nào cho dễ đọc. Tôi thấy khó, đúng hơn là rất khó. Khi thử dùng công cụ tìm kiếm trên internet tôi cảm thấy thất vọng. Với 14 triệu thông tin liên quan đến “giá trị làng nghề”, đó là gì? - Là tạo việc làm, tăng thu nhập, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát huy các giá trị văn hóa, phát triển du lịch, phát triển xã hội; nhiều bài viết chủ yếu liệt kê các làng nghề trong địa phương mình, khai thác giá trị văn hóa làng nghề truyền thống trong việc phát triển du lịch cộng đồng và những gì tương tự như vậy. Vây tôi viết thêm gì nữa, liệu có bạn nào đọc hay không. Tôi tìm kiếm tiếp các bài viết về “nghề thủ công truyền thống”. Cụm từ này rất ít trên dữ liệu internet với chỉ khoảng 6.170 cho kết quả tìm kiếm “giá trị nghề thủ công truyền thống” (cụm từ tìm kiếm đặt trong ngoắc kép). Một vài bài viết tốt hơn như: Giá trị của nghề thủ công truyền thống trong đời sống người dân Cần Thơ”, Báo Cần Thơ, nhưng quá “cô đơn”. Tôi cũng tìm đọc một vài luận văn bậc tiến sĩ nhưng rất tiếc không tìm ra luận văn nào để tham khảo cho bài viết của mình vì đa số nghiên cứu về quản lý và các biện pháp phát triển làng nghề dựa vào các chính sách công hoặc chính quyền. Thời gian đầu tìm hiểu về nghề thủ công và làng nghề tôi cũng từng viết theo dàn bài ấy. Tất cả những nội dung ấy đều có giá trị đóng góp nhất định trong một giai đoạn lịch sử của đất nước và lịch sử nghề thủ công và làng nghề Việt Nam nhưng cũng để lại không ít những “di chứng” tiêu cực. Tiêu cực đầu tiên là người dân trong và ngoài làng nghề, công đồng hành nghề thủ công chỉ biết có chừng ấy giá trị của nghề thủ công và làng nghề, thứ nữa là “lười tìm hiểu, nghiên cứu”. Khi nền kinh tế thế giới phát triển như những cuộc cách mạng như hiện nay, nhất là các làn sóng cách mạng trong kinh tế, khoa học, công nghệ, đặc biệt là các phát hiện mới về lý thuyết, trong thực tế đã làm đổ sập nhiều đại công ty toàn cầu và làm chao đảo những chính phủ yếu kém, đẩy nhiều dân tôc lùi lại phía sau và trở thành các “nhà đại tiêu dùng” cho họ. Nhìn vào hiện trang này, “số phận” di sản văn hóa phi vật thể nghề thủ công và làng nghề Việt Nam cũng không thể đứng ngoài xu thế chung toàn cầu. Đây là thách thức vô cùng lớn đối với các mục tiêu bảo vệ phát triển nghề thủ công và làng nghề mà còn là sự đặt cược rũi ro vào vào số phận cả chục triệu người đang hành nghề thủ công cả nước.
Song song với giá trị về văn hóa, xã hội, đến nay, các giá trị về kinh tế của di sản văn hóa phi vật thể chưa được nghiên cứu. Bộ môn kinh tế học về văn hóa trong nước còn non trẻ. Đa số các đề cương giảng dạy kinh tế học văn hóa trong các trường đại học hoặc chuyên đề nghiên cứu của các chuyên gia về kinh tế học về văn hóa ở nước ta chủ yếu là dạy và nghiên cứu về vai trò của văn hóa, mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, thị trường tiêu dùng các sản phẩm văn hóa nhằm phục vụ cho việc đưa ra các chính sách về kinh tế, văn hóa trong điều hành và phát triển quốc gia của Chính phủ hoặc giúp các nhà đầu tư bỏ vốn cho việc khai thác các di sản văn hóa cho các mục đích khác, chủ yếu là du lịch... Các luận văn tiến sĩ mà tôi đã đọc, những vấn đề ví dụ như làm thế nào để đánh giá và xác nhận một di sản văn hóa phi vật thể và các giá trị của chúng; kỹ năng thủ công và vai trò của chúng; các giá trị tri thức nghề thủ công hoặc kiến thức về vật liệu trong nền sản xuất quốc gia... dường như rất hiếm. Các nghiên cứu nhằm giải đáp câu hỏi về giá trị kinh tế của nghề thủ công dựa vào kinh tế học văn hóa còn khá mỏng trong khi đây là lý thuyết đang được áp dụng chủ yếu để giải thích các hiện tượng văn hóa và di sản chứ không chỉ dừng lại ở mục đích phục vụ cho quản lý nhà nước, doanh nghiệp. Nếu chỉ dừng ở đây, di sản văn hóa chỉ mới trông thấy vẻ bên ngoài. Trong một vài nội dung cụ thể chẳng hạn như giá trị kinh tế của nghề truyền thống như dệt may hoặc gốm sứ… chưa thật sự được nghiên cứu nghiêm túc. Đa số các nghiên cứu tập trung vào các biểu hiện bên ngoài ví dụ như hoa văn, chất liệu, quy trình sản xuất, các ứng dụng bí quyết nghề thủ công cho sản xuất.
Dù muộn còn hơn không làm gì và là bởi vì tôi vẫn có nguồn an ủi rằng cho đến nay các nghiên cứu về giá trị nghề thủ công vẫn còn đang được các nhà nghiên cứu tên tuổi trên thế giới tiếp tục. Họ tập trung tìm kiếm lời giải đáp cho hàng loạt vấn đề từ phương pháp tiếp cận, phương pháp nghiên cứu đến các tiêu chí có thể chấp nhận để đánh giá giá trị của nghề thủ công.
Vì vậy, (1) từ góc độ kinh tế học văn hóa, tôi mong có các trao đổi, tranh luận về các góc nhìn rộng rãi, đa chiều về nghề thủ công, làng nghề và hàng thủ công đồng thời tôi mong nhiều người hơn nữa tham gia vào các cuộc thảo luận về chức năng, bản sắc, thẩm mỹ của hàng thủ công hoặc đào sâu vào các đặc trưng của nghề thủ công truyền thống, mở rộng ra hơn nữa các giá trị còn ẩn bên trong nghề thủ công nhằm có cái nhìn bao quát, cởi mở hơn kể cả khi có nghề mới, kỹ năng mới xuất hiện hoặc sản phẩm thủ công thiết kế mới hoặc lớn hơn như sức mạnh của văn hóa nghề thủ công trong bảo vệ tổ quốc, phát triển kinh tế, xã hội, giáo dục, khoa học, đóng góp cho phát triển bền vững và các chương trình đa dạng văn hóa quốc tế…
“Thế giới thủ công đang chuyển động và chúng tôi, các học giả muốn nắm bắt động lực đó và hiểu rõ về nó, đồng thời đồng thời trân trọng chúng là những di sản phi vật thể quý giá mà nghề thủ công làm đại diện. Việc đánh giá lại nghề thủ công có thể báo hiệu hoặc là một biểu hiện của sự thay đổi to lớn trong các nền kinh tế đương đại” (trích sách nhiều tác giả “Một phân tích kinh tế học văn hóa của nghề thủ công”). Một sự thay đổi về các giá trị là cần thiết, chẳng hạn như đánh giá lại các kỹ năng thủ công và sẵn sàng chi trả xứng đáng cho chất lượng. Tôi mong có nhiều ngươi dành thời gian nghiên cứu học thuật bổ sung. Tôi mong đợi những thay đổi sâu rộng từ nhiều người, sẽ tìm ra cách cụ thể để làm cho công bằng đối với phẩm chất của công việc thủ công, hàng thủ công nói chung, đặc biệt làm thế nào để có thể thừa nhận sự phù hợp của văn hóa truyền thống trong các nền kinh tế đương đại.
Mặc khác, (2) sau sự ra đời của Công ước về di sản văn hóa phi vật thể (công ước 2003), các khái niệm, thuật ngữ chung quanh di sản ngày càng phổ biến hơn nhưng để hiểu sâu hơn những gì các nhà kinh tế văn hóa, các chuyên gia kinh tế nói về di sản, tôi đã phải tìm hiểu sự phát triển quốc tế của thuật ngữ di sản. Từ Công ước về di sản 1972 đến Công ước 2003 đã giúp tôi hiểu được phần nào bản chất của di sản, phân biệt đâu là di sản được hiểu là vật thể và đâu là di sản văn hóa phi vật thể; hiểu mối quan hệ giữa chúng cũng như sự khác biệt giữa chúng và những hạn chế tầm nhìn và nhận thức quốc tế về di sản. Nhưng những hiểu biết đó vẫn là chưa đủ.
Còn nếu chỉ đọc văn bản Công ước 2003 và chứng kiến sự tập hợp rộng rãi và sự đồng thuận mạnh mẽ của 120 quốc gia thành viên biểu quyết thông qua Công ước này cũng chỉ cảm thấy vui mừng nhưng không thể hiểu hết về di sản văn hóa phi vật thể vì Công ước không đưa ra một định nghĩa chính xác, cụ thể như thế nào là di sản văn hóa phi vật thể. Văn bản Công ước và luật về di sản văn hóa phi vật thể Việt Nam cũng chỉ liệt kê các loại hình di sản văn hóa phi vật thể: “Di sản văn hóa phi vật thể” được hiểu là các tập quán, các hình thức thể hiện, biểu đạt, tri thức, kỹ năng – cũng như những công cụ, đồ vật, đồ tạo tác và các không gian văn hóa có liên quan – mà các cộng đồng, các nhóm người và trong một số trường hợp là các cá nhân, công nhận là một phần di sản văn hóa của họ” đồng thời nêu các đặc trưng: “chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, di sản văn hóa phi vật thể được các cộng đồng và các nhóm người không ngừng tái tạo để thích nghi với môi trường, với mối quan hệ qua lại giữa cộng đồng với tự nhiên và lịch sử của họ, đồng thời hình thành trong họ một ý thức về bản sắc và sự kế tục, qua đó khích lệ sự tôn trọng đối với sự đa dạng văn hóa và tính sáng tạo của con người” (trích Công ước 2003). Luật di sản văn hóa của Việt Nam cũng liệt kê di sản văn hóa phi vật thể gồm: Tiếng nói, chữ viết; Ngữ văn dân gian; Nghệ thuật trình diễn dân gian; Tập quán xã hội và tín ngưỡng; Lễ hội truyền thống; Nghề thủ công truyền thống; Tri thức dân gian. Và Di sản văn hóa phi vật thể phải: Có tính đại diện, thể hiện bản sắc của cộng đồng, địa phương; Phản ánh sự đa dạng văn hóa và sự sáng tạo của con người, được kế tục qua nhiều thế hệ; Có khả năng phục hồi và tồn tại lâu dài, Được cộng đồng đồng thuận, tự nguyện đề cử và cam kết bảo vệ.
Những nghiên cứu và thảo luận quốc tế trong bối cảnh mới đã cung cấp dần dần những điều mới mẻ và tôi tin từ đây như là sự khích tướng, buộc các nhà nghiên cứu trong nước không thể bàng quan ngồi nhìn. Nhiều định nghĩa khác nhau về di sản, đặc biệt là di sản văn hóa phi vật thể cho thấy thế giới đã đạt được kết quả to lớn, khái niệm về di sản văn hóa rộng mở hơn. Các di sản văn hóa vật thể nhắc chúng ta về quá khứ nhưng những nghệ nhân bậc thầy khi sáng tạo ra không có ý niệm nhắc nhở người đương thời về quá khứ. Các chế tác từ di sản văn hóa nghề thủ công cũng không gơi ý chúng ta về quá khứ nhưng chúng lại từ quá khứ đến với hiện tại chúng ta. Có những di sản văn hóa hoàn toàn trừu tượng, không có những công cụ, đồ vật, đồ tạo tác mà chỉ có không gian văn hóa và các biểu hiện hành vi. Các đặc tính về di sản văn hóa được nêu ra chỉ xuất hiện và mở rộng sau này, sau khi có Công ước về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể. Chẳng hạn như: “Di sản văn hóa phi vật thể được hiểu là những trải nghiệm được trau chuốt về mặt thẩm mỹ hoặc khái niệm. Công ước tập trung vào các nhóm hành động mà mọi người gọi là truyền thống và coi là có ý nghĩa chứ không chỉ đơn thuần là các hành động thực dụng” (GSTS Priyatej Kotipalli).
Nhiều học giả dường như đang chấp nhận kết luận nghiên cứu của T.S. Marilena Vecco: “Trong những thập kỷ cuối của thế kỷ 20, thuật ngữ "di sản" được đặc trưng bởi sự mở rộng và chuyển giao ngữ nghĩa, dẫn đến việc khái quát hóa việc sử dụng từ này, thường được sử dụng thay thế cho từ khác, chẳng hạn như di tích hoặc di sản văn hóa. Tuy nhiên, tất cả các thuật ngữ này không thể bao hàm cùng một trường ngữ nghĩa. Bắt đầu bằng sự phản ánh về sự phát triển ngữ nghĩa của khái niệm di sản văn hóa ở Pháp, chúng tôi tiếp cận định nghĩa quốc tế về di sản được đưa ra bởi các chỉ thị, điều lệ và nghị quyết quốc tế để xác định một phác thảo toàn cầu về ý nghĩa của di sản không chỉ giới hạn trong phạm vi một quốc gia cụ thể. Từ cách tiếp cận thuần túy mang tính quy phạm, người ta đã chuyển sang cách tiếp cận ít hạn chế hơn, dựa trên khả năng của đối tượng để khơi dậy những giá trị nhất định khiến xã hội được đề cập coi chúng là di sản và do đó, tiến tới một bước xa hơn di sản không còn được xác định trên cơ sở khía cạnh vật chất của chúng. Sự phát triển này cũng giúp cho việc công nhận di sản văn hóa phi vật thể lâu nay bị bỏ qua là di sản cần được bảo vệ, gìn giữ”. (TS Marilena Vecco, Đại học Ca ’Foscari of Venice, San Sebastiano, Dorsoduro, Venice, Ý- Tạp chí Di sản Văn hóa, Tập 11, Số 3, Tháng 7 - Tháng 9 năm 2010, Trang 321-324, orcp.hustoj.com/wp-content/uploads/2016/01/2010-A-definition-of-cultural-heritage_From-the-tangible-to-the-intangible.pdf).
Một yêu cầu rất quan trọng trong tìm hiểu về di sản văn hóa phi vật thể nghề thủ công truyền thống là (3) cần nhìn thấy các nguy cơ làm mai một bản sắc dân tộc do sự xâm lấn của các nền văn hóa lớn với nhãn hiệu toàn cầu hóa, đồng nhất văn hóa toàn cầu bất chấp lời kêu gọi của Liên hiệp quốc về đa dạng văn hóa, sản xuất bền vững hoặc các xu hướng khuyến khích tiêu dùng khoa trương hình thức.
Cuối cùng (4), tôi xin thuật lại dự án về “Cuộc sống của một chiếc váy (Life of a Dress)” của Amanda Ericsson, bằng tiến sĩ của cô với đề tài Nâng cấp Quản lý Dệt may tại Thụy Điển, Trường Dệt may, Borås, Thụy Điển để nói về cách thức, tính nghiêm túc và cả sự tốn kém về tài chính trong các dự án nghiên cứu về nghề thủ công và các mối quan hệ chúng quanh một nghề cụ thể. Cuộc sống của một chiếc váy là một cuộc phiêu lưu của cô cùng với những chiếc váy trải qua nhiều quyền sở hữu từ các góc xa của thế giới. Thông qua nhiếp ảnh, phim, thực tế và hư cấu, các khái niệm và định nghĩa về quần áo, nghề dệt may, thiết kế lại (redesign) và về thời trang, cùng với tầm nhìn và niềm tin mạnh mẽ rằng mọi thứ cũ có thể được hồi sinh và trở thành một cái gì đó mới. Trong số những câu hỏi trong dự án này, câu hỏi “tại sao con người tìm kiếm vẻ đẹp của quần áo, thời trang?” Cô cho biết: Thông qua văn hóa, lịch sử và truyền thống của chúng ta, người ta có thể nhìn thấy và đánh giá chúng ta qua cái nhìn đầu tiên là quần áo chúng ta mặc. Qua cuộc tìm kiếm, cô cho rằng vẻ đẹp định hình một ngôn ngữ của riêng chúng với các tín hiệu và biểu tượng nói lên những câu chuyện về nguồn gốc, trạng thái của người sử dụng quần áo, sở thích và nghề nghiệp của họ. Chúng ta hình thành định kiến về một ai đó thông qua các biểu hiện của quần áo.
Các kiểu quần áo dù thiết kế đẹp đến đâu cũng thay đổi nhanh chóng về màu sắc hoặc hình dạng. Các kiểu quần áo đã trở thành những thứ thu hút những mong muốn tiêu dùng "không thể lấp đầy" của thế giới với các nhu cầu tiêu dùng khác nhau.
Quần áo có một cuộc hành trình di chuyển rất xa để người tiêu dùng có thể dễ dàng tiếp cận chúng. Thông qua sản xuất toàn cầu, quy trình ra đời chiếc váy bao trùm mọi lục địa. Vật liệu thô được sản xuất ở một quốc gia và vận chuyển đến một nước khác để tiếp tục xử lý theo nhiều cách thức khác nhau. Từ đất đến gieo hạt, hạt đến sợi, sợi đến màu sắc…, rồi đến vải và từ vải đến y phục, thời trang. Cả một quy trình ấy tạo ra niềm vui, hạnh phúc cho nhiều người dùng và sự hoàn mỹ, sang trọng cho một số ít. Nhưng những nơi sản xuất nguyên liệu thô, người sản xuất chịu bệnh tật và thiếu thốn nước.
Những chiếc váy được tạo ra, đóng gói, được bán và gửi đi xa hơn. Và rồi chuyện gì xảy ra xảy ra với quần áo sau khi chúng đã được sử dụng bởi những người dùng đầu tiên của chúng? Có bao nhiêu hình thức tồn tại của chúng trong tương lai? Sợi dệt quá yếu ớt, mỏng manh và váy dễ bị sờn rách, mài mòn, có nhiều khả năng quần áo tồn tại trong hình dạng này hay hình dạng khác không? chúng có thể được sử dụng dưới dạng vật liệu thô cho một sản phẩm mới? Theo định nghĩa, thời trang có nghĩa là một cái gì đó thay đổi liên tục, một cái gì đó cùng hòa với nhịp điệu của hiện tại. Vì vậy, khi thời trang của ngày hôm nay, thời trang của ngày mai đã lỗi thời, hay chúng sẽ tiếp tục? Một phần lớn quần áo đã qua sử dụng sẽ được chuyển đến bãi rác, một phần nhỏ hơn sẽ được thu thập hoặc quyên góp cho tổ chức từ thiện hoặc cho đại lý thương mại buôn bán đồ cũ. Chiếc váy làm từ thiện được đánh giá cao và hàng may mặc nói chung sẽ được các tình nguyện viên chia cho người cần dùng tại nhiều địa phương xa xôi. Trong hầu hết các trường hợp, quần áo cũ sẽ được bán theo kiện bởi các công ty buôn bán đồ cũ quốc tế. Họ đóng gói lại và bán cho các nước đang phát triển có ít hoặc không có vải dệt của riêng họ hoặc không có ngành sản xuất quần áo mạnh. Các quốc gia bị ảnh hưởng lâu dài vì chiến tranh, do sống trong một nền kinh tế yếu, từ xã hội, môi trường và quan điểm văn hóa khác nhau là một vấn đề được thảo luận rộng rãi chung quanh chiếc váy.
Do chính trị, một số các quốc gia đã chọn biện pháp cấm nhập khẩu quần áo để bảo vệ hàng dệt may trong nước và ngành sản xuất quần áo của họ. Lệnh cấm này có thể góp phần vào việc gia tăng buôn lậu và nhập khẩu bất hợp pháp và tạo ra khan hiếm biến quần áo cũ thành hàng hóa có giá trị cao hơn thị trường.
Khi thương mại ngày càng phát triển trên toàn cầu, thông tin và kiến thức đã được truy cập dễ dàng ở nhiều quốc gia thông qua hình ảnh và ngôn ngữ từng quốc gia. Nhờ đó, các cộng đồng địa phương đã trở nên lớn mạnh, định hình như các xã hội toàn cầu liên kết với nhau thông qua việc sử dụng các hệ thống máy tính, phần mềm máy tính, giao diện đơn giản hơn và internet. Khi các ý tưởng được hình thành và giao tiếp nhanh chóng đã làm mới các ý tưởng phát triển kinh doanh, có thể chỉ được thực hiện trong một thời gian ngắn đã ảnh hưởng đến cả nước và cộng đồng toàn cầu. Với những thay đổi nhanh chóng trong nhận thức về những gì là hiện đại và những gì không, sản xuất thời trang và tiêu thụ đã tạo ra một ngọn núi ngày càng cao chứa những quần áo đã qua sử dụng. Các nhà sưu tập thời trang có chất lượng từ các thời đại khác nhau đặt cược với rủi ro và họ cho rằng một một ngày không xa những phong cách này sẽ trở lại thành thời trang.
Một núi chất thải từ công nghiệp dệt may và tiêu dùng quần áo đặt ra vấn đề bền vững, thuật ngữ bền vững đã trở thành phổ biến. Nhưng bền vững vì ai? Và thời trang có thể muốn bền vững được không khi buộc nó theo định nghĩa nghịch, có nghĩa là không thay đổi? Thời trang bền vững có phải là đang mâu thuẫn trong chinh chúng à? Hay thời trang chỉ là một từ để chỉ một cái gì đó có đã diễn ra trong nhiều thế kỷ và đó là một cách hiển nhiên để họ sống và kiếm tiền đối với một số con người? Quan trọng nhất là câu hỏi, thời trang có thể là một khả năng cho tương lai? Tức là các vấn đề liên quan với một ngọn núi (hoặc vật liệu) quần áo cũ thải ra ngày càng lớn tạo ra dấu chân carbon càng lớn hơn (dấu chân cacbon (tiếng Anh: Carbon footprint) là lượng khí nhà kính chủ yếu là cacbon dioxide, được thải vào khí quyển bởi một hoạt động cụ thể của con người); và vùng nước ô nhiễm rộng hơn sẽ thúc đẩy chúng ta, tất cả vào cuộc cách mạng tiếp theo?
Chúng ta có thể học hỏi từ lịch sử cũng như cách sống và sử dụng trong hiện tại các kỹ năng, kiến thức và khoa học theo một trật tư không để lặp lại sai lầm cũ? Và bằng cách làm như thế này để biến đổi và tinh chế chất thải quần áo thành vàng?
Dự án về “Cuộc sống của một chiếc váy” diễn ra với hàng loạt các sự kiện như triển lãm du lịch “Cuộc sống của một chiếc váy” và hàng loạt hội thảo làm trung tâm của sự kiện. Dưới góc độ thương mại toàn cầu của quần áo cũ, dự án nhắm đến mục tiêu điều tra cách các hoạt động gia tăng giá trị thủ công có sự tham gia của người dân - các xưởng thủ công trong cộng đồng địa phương vào một cuộc thực hành tái chế lại những nguyên vật liệu. Một mục tiêu xa hơn của dự án là để quan sát và tạo ra các khía cạnh phát triển, các ảnh hưởng và xây dựng lại các mô hình tiêu dùng bền vững và sản xuất. Dự án khám phá các mô hình cho tái sản xuất quần áo củ và tạo cơ hội để phát triển hơn nữa. Ở trung tâm của triển lãm, các hội thảo mở phát triển các ý tưởng và kỹ năng được chia sẻ từ những người tham gia triển lãm diễn ra. Hội thảo thực nghiệm “Cuộc sống của một chiếc váy” khám phá những cách khả thi để sử dụng, cải thiện và cấu hình lại hệ thống hiện tại của thời trang thông qua việc lấy lại những gì bản thân hệ thống đang tạo ra và lãng phí. Khái niệm thiết kế bền vững được khám phá như cách tiếp cận của dự án được xem là nhạy cảm với địa phương và toàn cầu. Triển lãm và hội thảo thuộc dự án này kể từ năm 2009 đã được mời đến thăm các lục địa và quốc gia khác nhau từ châu Âu đến châu Á, Nam Mỹ, châu Phi… để chia sẻ nội dung và học hỏi từ các dự án địa phương và mọi người về cách suy nghĩ lại việc sử dụng nguyên vật liệu nói chung bằng nghề thủ công. Xưởng thủ công và các phòng tạo mẫu được mời đến tham gia. Trong các hội thảo này, những người tham gia được khuyến khích thách thức các cấu trúc và cách thức hiện tại, suy nghĩ xung quanh vật liệu và chế tạo. Các cuộc triển lãm thường được xây dựng xung quanh bản đồ cuộc hành trình của chiếc váy tựa như một biểu tượng cho bản chất toàn cầu của hàng dệt may và thời trang và cách thức mà nghề thủ công có thể tham gia bằng trí tưởng tượng sáng tạo được sử dụng và được coi là tài nguyên tái tạo chính trong và ngoài dự án này. Sự sáng tạo và các hình thức biểu đạt khác nhau của nó là được khám phá thêm và được sử dụng để thúc đẩy dự án về phía trước.
Câu chuyện về dự án trên gợi ý chúng ta về cách tổ chức nghiên cứu thực nghiệm và làm các sự kiện như thế nào khi nội dung của sự kiện liên quan đến những vấn nề đang nổi lên đối với nghề thủ công và làng nghề nước ta.
(Còn tiếp: b-6-)
NGUYỄN LỰC
0 Bình luận