Bản thảo một tiểu luận: GIÁ TRỊ CỦA NGHỀ THỦ CÔNG VÀ LÀNG NGHỀ (12)
3- NGHỀ THỦ CÔNG TRONG “NỀN
KINH TẾ TRẢI NGHIỆM”.
Năm 2010, tôi và nhóm
chuyên viên của Cơ quan Hiệp hội Làng nghề Việt Nam phía Nam khảo sát làng nghề
gốm Bàu Trúc, giúp Sở Công thương tỉnh Ninh Thuận chuẩn bị đề án marketing để trình Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh xem xét
quyết định đầu tư kinh phí hỗ trợ làng nghề cổ nhất Đông Nam Á. Tôi đã chứng kiến nhiều đoàn khách du lịch
nước ngoài đến thăm làng nghề này. Mỗi ngày ít nhất là 5 đoàn đến bằng
những chiếc xe 50 chỗ ngồi, đỗ trên con đường ngang qua giữa làng. Tuy nhiên, số du khách này hầu như chỉ xem, hỏi và chụp hình, có
rất ít người mua. Ở Làng nghề dệt thổ cẩm Mỹ Nghiệp cách đó không xa tình hình
cũng tương tự, dù sản phẩm của làng nghề này nhỏ gọn và nhẹ, rất dễ xếp vào ba
lô, túi xách mang theo. Tôi cũng đã trao đổi với nhiều người có trách nhiệm ở
những nơi tôi đến về cách thức làm thế nào để tạo ra nguồn thu từ việc cung cấp
dịch vụ bù cho việc bán hàng khó khăn. Nhưng đến nay gần như chưa có chuyển biến
đáng kể.
Năm 2018, Kevin
Murray, quản lý biên tập viên của Tạp chí Garland, trong bài viết: “Tương tác với nền kinh tế “trải
nghiệm” - các mô hình mới cho sự bền vững của nghề thủ công” cũng kể về những quan sát tương tự. Kevin
Murray cư trú ở chợ Queen Victoria ở Melbourne hơn ba mươi năm, nơi nổi tiếng với
các sản phẩm thực phẩm thủ công (tên
chính thức: Trung tâm Thủ công mỹnghệ Meat Market (tên riêng: Chợ thịt), nơi ông đang sống, ở Bắc Melbourne, một di sản văn hóa của BangVictoria, Úc. Ông viết: Trong thời gian gần đây,
tôi đã ghi nhận sự gia tăng khách du lịch nước ngoài lấp đầy các lối đi. “Điều
này hẳn tốt cho việc kinh doanh,” tôi nói với một trong những người chủ cửa
hàng. “Còn xa”, cô ấy trả lời, “công việc kinh doanh của chúng tôi đã đi xuống.
Tất cả những gì mọi người muốn làm là chụp ảnh. Họ không mua gì cả”.
Đó là một điệp khúc quen thuộc không chỉ ở Việt Nam. Việc chia sẻ hình ảnh trên mạng xã hội dường
như đã trở thành sự thay thế cho túi quà lưu niệm được mang về cho gia đình và
bạn bè. Điều này đang xảy ra?
Và điều này sẽ ảnh hưởng như
thế nào đến tương lai của hàng thủ công?
Người ta gọi hình thức tiêu dùng mới này là “kinh tế trải nghiệm”. Thuật
ngữ này có nguồn gốc từ những tiên lượng của Alvin Toffler trong cuốn sách “Cú
sốc tương lai” (1984, sách đã được
dịch sang tiếng Việt), phản ánh sự chuyển dịch sang lĩnh vực dịch vụ: “một khi
xã hội công nghệ đạt đến một giai đoạn phát triển công nghiệp nhất định, nó bắt
đầu chuyển năng lượng sang cung cấp dịch vụ, khác biệt với hàng hóa.” Đối với
Toffler, nền kinh tế này sẽ được thúc đẩy bởi cái mà ông gọi là “những người tạo
ra trải nghiệm”, những người sử dụng tâm lý học để nâng cao trải nghiệm tiêu
dùng. Xu hướng này được đặt tên là “nền kinh tế trải nghiệm” trong một ấn bản của
Tạp chí Kinh doanh Harvard năm 1998 (Chào mừng đến với Nền Kinh tế Trải nghiệm,
Joseph Pine và Gilmore 1998, xem Harvard Business rewiew).
Phần lớn hành động này ban đầu ở cấp độ tiếp thị và tập trung vào việc
phát triển bản sắc thương hiệu. Coca-cola quảng bá sản phẩm của họ không chỉ
đơn thuần là một thức uống giải khát mà nhấn mạnh sản phẩm này hướng đến trao trọn
gói sự trải nghiệm thư giãn cùng bạn bè. Nhãn hiệu giày Nike không chỉ trở
thành một đôi giày chạy bộ tuyệt vời
mà còn biểu tượng một thái độ quyết tâm rèn luyện sức khỏe.
Nhưng giờ đây, bản sắc thương hiệu đã rời xa bản thân sản phẩm, hướng
tới trải nghiệm, được gọi là trải nghiêm tạm thời. Chỉ một năm trước, 2017, 2/3 số du khách Trung Quốc được
Hotels.com và công ty nghiên cứu thị trường toàn cầu Ipsos khảo sát cho thấy việc
mua sắm là lý do chính để họ đi du lịch. Năm sau, 2018, hai đơn vị này
cũng tiến hành một cuộc khảo sát tương tự và cho biết chỉ còn 1/3 trong số người được khảo sát nói họ
chủ yếu đi du lịch để mua sắm. Trải nghiệm và ăn uống cao cấp đứng đầu danh
sách ưu tiên cho mục đích đi du lịch của họ. Hiroshi Aoi (Giám sát Du lịch Quốc
tế về Trung Quốc), người lãnh đạo một công ty điều hành chuỗi bán lẻ lớn nhất
Nhật Bản, phản ánh đại ý rằng “Cùng với sự quay lưng lại với những biểu hiện bên ngoài của thời trang… là ý
tưởng về sự hoàn thiện cá nhân và đã trở thành sản phẩm với những thứ như thực
phẩm, ăn uống và trải nghiệm giải trí được đưa lên hàng đầu.”
Ở Anh, chi tiêu cho giải trí, trải nghiệm đã tăng 8% hàng năm nhưng tiền chi cho thời trang đã
giảm sâu. Một nghiên cứu ở Mỹ cũng đưa ra kết luận rằng ba trong bốn thiên niên
kỷ tới người tiêu dùng sẽ chọn chi tiền của họ cho một trải nghiệm hoặc một sự
kiện thay vì cho một cái gì
đó vật lý (hiện vật). (Eventbrite 2018)
Báo cáo về thị trường hàng thủ công của Hội đồng Thủ công mỹ nghệ
Vương quốc Anh mới nhất, 2020, cho thấy: Xu hướng xã hội được coi là tác động đến
hàng thủ công vẫn là sự phát triển trong mong muốn của công chúng về tính xác
thực, các trải nghiệm, đạo đức và tiêu dùng bền vững đã giúp thúc đẩy sự quan
tâm đến hàng thủ công. Thêm nữa, động lực xuất phát từ mối quan tâm đối với sức
khỏe và chánh niệm. Chiếm 20% trong thị trường hàng thủ công tổng thể chỉ ra rằng
người mua trả tiền để tham dự một xưởng thủ công.
Trong nền kinh tế thời
hậu chiến, người tiêu dùng tập
trung vào việc tìm cách sở hữu
mọi thứ, từ nhà, xe, TV đến tủ lạnh... Nhưng càng ngày, mối quan hệ của họ với những thứ
này chỉ là tạm thời, được phản ánh qua các mặt hàng cho thuê như thuê cay cảnh cho các công ty hoặc dân
chúng vào ngày Tết, thuê xe, bàn nghề, quần áo dạ hội, ...
Giám đốc Bền vững của IKEA, một công ty nhập khẩu đồ gỗ nội thất hàng
đầu thế giới, rất quen thuộc tại Việt Nam, Steve Howard, đã gây sóng gió khi
ông nhận xét rằng người tiêu dùng ở phương Tây đã đạt đến “đỉnh cao việc mua sắm
đồ đạt trong nhà”. Trong mắt ông, tâm lý mua sắm tràn lan của thế kỷ 20 đã nhường
chỗ cho một sự từ chối việc mua hàng tích trữ mới. Ông nói: “Nhìn chung, bạn đã
thấy sự mở rộng đáng kể trong tiêu dùng và sinh kế của người dân trong thế kỷ
20. Nhưng những ngày này, nó “đang giảm dần”. Theo báo cáo cuối năm của
Barclaycard, nền kinh tế trải nghiệm đang tăng mạnh ở người Anh, bất chấp lạm
phát và chủ trương thắt lưng buộc bụng của Chính phủ.
Trong bối cảnh du lịch, nghệ
nhân, thợ thủ công là những nhân vật,
chủ thể rất hấp dẫn cho các ống kính
máy ảnh,
máy quay. Dữ liệu Instagram, twiter và Facebook chứa đầy những hình ảnh
hấp dẫn của các nghệ nhân đang làm việc, tạo ra những đồ vật đẹp, tinh xão với
sự cẩn thận và kiên nhẫn. Nhưng bản thân các nghệ nhân được lợi gì từ tất cả những
hình ảnh này?
Bức tranh trên có vẻ khá nghiệt ngã đối với nghề
thủ công và những tác phẩm thủ công. Nhưng đây đã và đang là một điệp khúc quen
thuộc kể từ khi bắt đầu công nghiệp hóa và sự sai lầm nghiên trọng của nhân loại
về di sản của tổ tiên. Có một sự thích thú nhất định trong vẻ thuần khiết của nghề
thủ công, nhưng điều này có thể khiến chúng ta mù quáng trước những đổi mới về
giá trị đồ thủ công đang nổi lên. Riêng tôi, sẽ thật là ngốc nếu tôi cố gắng
không tin rằng “nền kinh tế trải nghiệm” này thực sự chứa đựng một số cơ hội mới
quan trọng cho cho nghề thủ công khi chúng ta làm cho chúng thích ứng với nhu cầu
của xã hội và con người khi họ nhận ra khái niệm “thành nhân” ngày nay quan trọng
hơn bất kỳ giai đoạn nào trong lịch sử. Cũng thật là buồn khi tôi viết ra những
lời cay đắng về sự thiếu hiểu biết, mất cảm giác xót xa về những giá trị của
nghề thủ công tưởng như cố tình lãng quên.
Tôi thật lòng cảm ơn những doanh nghiệp đã đầu tư hàng trăm tỷ, thậm
chí là hàng ngàn tỷ với nhiều tâm huyết để thiết kế các khu trưng bày rộng hàng
chục hecta và đầy ắp các tác phẩm từ các nghệ nhân bậc thầy ở một vài địa
phương như HA, NT đã lấy được tình cảm và sự mến mộ của du khách trong nước và
quốc tế. Nhưng tôi cũng thật lòng tiếc cho họ vì lặp lại chức năng bảo tàng thời
kỳ hiện đại. Còn cần một bước nữa mà họ chưa thể bước tới được vì vậy mà dòng vốn
chưa quay lại như dự đoán trong kế hoạch đầu tư. Trong đó, đặc biệt là biết cách tổ chức cung cấp các dịch vụ
thủ công cho du khách và cho lớp thanh thiếu niên mới ngày nay cũng là một
loại kiến thức và kỹ năng sinh lợi.
Kevin Murray cho rằng: “ở đất nước của tôi, Australia, tình
hình hàng thủ còn lâu mới ảm đạm. Bằng chứng cho thấy sự bùng nổ của các xưởng
thủ công, chủ yếu được phản ánh trong các khóa học dành cho phổ thông. Các lớp
học làm gốm buổi tối đều đã được đăng
ký đến
chổ ngồi cuối cùng. Một câu chuyện phổ biến là những nhân viên văn phòng
dành cả ngày trước màn hình, cảm thấy mất kết nối với thế giới và họ cần thời gian ngồi vào bàn xoay làm gốm như một trải nghiệm
nền tảng”.
Tôi đồng tình với nhận
định này, ít nhất là đối với
các nghề thủ công chế biến nông sản truyền thống. Nhưng điều này đang diễn ra ở nước Úc, ngoài làng nghề, phố nghề, phần
còn lại ở Việt Nam thì chưa phổ biến như vậy.
Bằng chứng là các lợp học kỹ năng, studo, workshop tương tự như ở Úc, Anh, Mỹ, đặc biệt là Nhật Bản mà tôi
đã mô tả trong vài bài viết cách đây cả chục năm trước, đến nay chỉ đếm chưa đầy
các đốt ngón tay trên đôi
bàn tay. Ở những nước này sự
phổ cập nghề thủ có chất lượng không chỉ trong nhà trường mà phổ biến toàn xã hội.
Cựu đệ nhất phu nhân của Tổng thống Obama từng kể về những buổi tối đi học làm
đồ gốm. Các lợp học kỹ năng hiện
tại hướng dẫn các kỹ năng rất đơn lẻ, chưa có các thiết chế có qui mô đủ lớn cho
nhiều lựa chọn của khách hàng. Đó là sự khác biệt nhưng hiện trang này đồng thời
cũng làm trở ngại cho bước tiến của dòng lịch sử ghề thủ công lâu đời của đất
nước.
Nghề thủ công như một dịch vụ dành cho những người không phải
chuyên nghiệp đã và đang phát
triển theo những cách mới. Một trong những thành phố thủ công hàng đầu thế giới
là Kyoto, Nhật, du khách cảm
thấy khá choáng ngợp khi ngày càng nhiều người nước ngoài bị thu hút bởi đất nước
sạch sẽ, thành công và thân thiện
này chỉ vì là thành phố nghề thủ công. Thực tế ở Nhật
Bản, những đồ vật thủ công được sản xuất bởi các bậc thầy rất khó bán vì thường
vượt quá ngân sách du lịch trung bình của du khách. Đồng thời, một số sản phẩm
thủ công mang tính biểu tượng của Nhật như bộ đồ kimono đang mất dần thị trường
truyền thống (Hareven 2002). Các cô dâu đang ngày càng chuyển sang sử dụng những
bộ kimono mà họ có thể dễ dang thuê tại các cửa hàng đồ cưới, được làm bằng vật liệu polyester và được sản xuất
tại Trung Quốc.
Trước tình hình trên, thành phố Kyoto, kết hợp với Bảo tàng Thủ công Mỹ
nghệ Truyền thống Kyoto, đã phát triển một chương trình mang tên Artisan
Concierge (hướng dẫn của nghệ
nhân, xem website: kyotoartisans.jp/en/),
nơi khách du lịch có thể dành một ngày hoặc vài giờ trong xưởng thủ công để học
cách sử dụng một kỹ năng truyền thống. Họ có thể lựa chọn một loạt các kỹ thuật
thủ công như dệt vãi kimono, nhuộm cà vạt, làm đồ sơn mài, làm quạt, làm túi hương và làm gốm... Các
video trên YouTube cho thấy người thợ làm đèn lồng bậc thầy, chẻ tre, dán giấy và viết chữ thư pháp trên đèn lồng. Sau đó là cảnh người nghệ nhân hướng
dẫn du khách trẻ cách làm một chiếc đèn lồng nhỏ. Sẽ không thể học một nghề thủ
công trong một ngày, vì vậy nghệ nhân hướng dẫn phải trình bày ở dạng rút gọn,
bỏ qua những kỹ năng phức tạp và sử dụng các vật liệu chuẩn bị sẵn. Kết quả, các du khách đã có một
ngày đáng nhớ trong một xưởng thủ
công truyền thống của Nhật Bản với kết thúc ngày học bằng trà đạo và đồ
ăn nhẹ cùng với sản phẩm tự mình làm ra được phép mang về làm kỷ niệm. Ký ức du
khách được tạo ra về một không gian yên tĩnh và sự tập trung, khác xa với những
không gian ồn ào náo nhiệt của cuộc sống bên ngoài hoăc văn phòng
của họ. Họ ít ra cũng
có thể kiểm tra kỹ năng của mình vào một lúc nào đó có thể với một lần chế tạo một đồ vật trong cuộc sống bên ngoài xưởng. Những
khách tham gia buổi học có một trải nghiệm để giữ mãi trọn đời và họ tự hào về
sự hoàn thiện bản thân mình. Đó chính là một thứ sản phẩm vô hình được “bảo
hành trọn đời” mà nghề thủ công có thể “bán” vào thị trường của nền kinh tế trải
nghiệm mà dịch vụ là thứ để “bán” có thể có hoặc không cùng với sản phẩm.
Vào trang web Artisan Concierge của
Kyoto và xem dịch vụ này, chúng ta sẽ thấy hàng chục xưởng thủ công với các kỹ
năng nghề thủ công khác nhau, trong số đó có nghề có lịch sử cách đây hơn 100
năm, nhiều nghề cách đây hơn 200 năm. Trong số khách thăm và học tập làm thủ
công có 45% là khách nước ngoài.
Mô hình tương tự này ở những nơi khác ở Nhật Bản cũng thay đổi tùy vào
thực tế và sáng tạo dịch vụ mới của địa phương. Ở Toyama, dịch vụ Bed and Craft
(giường và thủ công) kết hợp chỗ ở với trải nghiệm thủ công. Tại Tokyo, khách
du lịch được tham gia một lớp học làm khăn tay cotton tenugui cùng vài chục nghề
khác trong tòa cao ốc. Ngay cả một kỹ thuật có vẻ chuyên biệt như thổi thủy
tinh cũng được Học viện Nghệ thuật Thủy tinh Tokyo cho trải nghiệm một ngày.
Một nghệ nhân người Thái nổi tiếng thế giới là Rirkrit Tiravanija. Ông
là một nghệ sĩ đương đại người Thái Lan sống tại Thành phố New York (Mỹ),
Berlin (Đức) và Chiangmai (Thái Lan). Ông sinh ra ở Buenos Aires, Argentina vào
năm 1961. Ông nổi tiếng với việc loại bỏ tất cả các đồ vật nghệ thuật ra khỏi
phòng trưng bày và thay vào đó bằng một nhà bếp, nơi anh ấy nấu và phục vụ những
bát súp Thái (ví dụ ở đây).
Nhưng gần đây trong một tác phẩm cho Phòng trưng bày Quốc gia Singapore, ông đã
tạo ra một công trình kiến trúc bằng tre ngoài trời cho các buổi trà đạo. Ông
sử dụng những chiếc cốc gốm do chính tay ông làm. Mặc dù bản thân các đồ vật đó
có thể không đáng chú ý, nhưng cách mà ông trình bày những đồ vật này khiến người
vào phòng uống trà đầy ắp trí tưởng tượng. Đó là sự công nhận về những trải
nghiệm hữu ích của thủ công có thể kết nối con người.
Trong thực tế, không thể đòi hỏi sự xuất sắc như những bậc thầy được
giới thiệu ở trên vì hầu hết các xưởng thủ công học tập và trải nghiệm cũng đồng
thời chế tác các sản phẩm. Điều quan trọng là có những phương pháp mới coi trải
nghiệm là phương tiện, đặc biệt là những phương pháp mang mọi người lại với
nhau theo những cách mới. Từ đó, nghệ nhân có thêm nguồn thu nhập cùng với các
tạo tác và phát triển nghề nghiệp.
Làm thế nào để chúng ta chuyển chức năng của làng nghề, các xưởng thủ
công ngoài làng nghề từ chuyên sản xuất, chế tác sản phẩm thủ công mỹ nghệ sang
dịch vụ “trải nghiệm thủ công” để tạo thêm nguồn thu cho nghệ nhân, thợ thủ
công và đóng góp vào nền kinh tế đất nước mà trong đó “kinh tế trải nghiệm” là
một nhánh không nhỏ?
Những năm gần đây, kim ngạch xuất sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam
tăng đều đặn là đáng mừng và chúng ta có niềm tin mạnh mẽ vào các mục tiêu lớn hơn
được đặt ra cho những năm sau. Nhưng như tôi đã phân tích ở bài trước mục tiêu
5 tỷ đô la vào năm 2025 là chưa xứng đáng với nguồn nhân lực và giá trị nghề thủ
công lâu đời của nước ta.
Một khía cạnh tích cực của việc thúc đẩy nghề thủ công trong “nền kinh
tế trải nghiệm” ít được chú ý, đó không phải là đưa nghề quay trở lại lối sống
cổ xưa mà chính là thách thức việc nghề thủ công tích hợp như thế vào thế giới
hàng ngày với lối sống của con người đương đại bằng các va chạm thực tiễn. Bảo
tồn nghề thủ công chỉ có ý nghĩa và có giá trị cũng như nghề thủ công phát triển
thành công khi nghề thủ công đó thích nghi với kinh tế và xã hội hiện tại, ngược
lại đồng nghĩa với mai một. Một ví dụ, nhìn vào thực tiễn nghề gỗ mỹ nghệ, nhất
là nghề điêu khắc gỗ, dù tay nghề nghệ nhân đã là bậc thầy, chúng ta vẫn phải thừa
nhận một hiện trạng là mục đích, chức năng của nghề này vẫn chủ yếu là chế tác
các biểu tượng cho việc thờ cúng các vị thần, phật, chúa, trang trí đền thờ, chùa,
trang hoàng lễ hội và chế tác các hình tượng khác như chức năng nguyên gốc xa
xưa của chúng. Những đồ vật này có giá trị thực hành trong các nghi lễ thờ
cúng, các sinh hoạt tâm linh của người cùng công đồng, dân tộc hoặc tín ngưỡng.
Nhưng thật khó để hiểu được vai trò nghi lễ của đồ vật trong “nền kinh tế trãi
nghiệm” toàn cầu. Do đó giá trị kinh tế sẽ thấp, cần một hình thức khác.
Các chế tác thủ công là những đồ vật có thể tồn tại lâu dài, chẳng hạn
như đồ gốm sứ và đồ trang sức. Đây một phần là sản phẩm của khảo cổ học, vốn dĩ
tập trung vào những vật liệu còn sót lại của các nền văn hóa trước. Nhưng nó
cũng phản ánh một nền kinh tế công nghiệp ấn định giá trị cho các sản phẩm lâu
bền có thể được mua và bán. Nghề thủ công nước ta có những thứ nằm ngoài bộ đồ
gốm sứ, kim loại, sợi, thủy tinh và gỗ thường thấy ở phương Tây. Chúng bao gồm
các sản phẩm như đèn lồng, ô dù, con rối, tò he, nón lá, dệt lụa, đồ trang sức
bằng trầm, xà phòng từ dừa, tranh dân gian và trồng và chế biến thực phẩm... rất
thu hút người nước ngoài.
Như một sự mặc định, nói đến sản phẩm thủ công chúng ta thường nghĩ đến
các chế tác để đời mà chưa thử hỏi nghề thủ công có phải chỉ tạo ra một sản phẩm
lâu dài không? Khi trả lời câu hỏi này, chúng ta sẽ mở ra cánh cửa rộng rãi cho
các kỹ thuật, kỹ năng thủ công khác trong cuộc sống hàng ngày, chẳng hạn như chế
biến thực phẩm và đồ uống. Những món đồ thủ công này hiện đang là chủ đề nhận
được sự quan tâm lớn của thế hệ hipster (xem: tại đây.
Hipsterism (chủ nghĩa hipster) từng bị coi là một thứ thời trang mỉa mai, chỉ
giới hạn ở những công nghệ lỗi thời như đĩa hát vinyl. Nhưng trong thời gian gần
đây, nó đã đạt được một mức độ tác động mới, như được ghi lại trong cuốn sách “Bậc
thầy thủ công: Nghề cũ trong nền kinh tế đô thị mới” (Ocejo 2017, tải về ở đây),
kể về những người đàn ông có học thức, trung lưu, những người đã cống hiến cả đời
để vực dậy những nghề thủ công đã mất với tư cách là người bán thịt, người nấu
bia thủ công.
Khi một người tiêu dùng đến thăm hai xưởng thủ công cùng một nghề, ở gần
nhau trong cùng làng nghề, những người này đều sản xuất một sản phẩm thú vị như
nhau, họ sẽ chọn cái nào? Câu trả lời là xưởng nào tạo ra trí nhớ tích cực, mạnh
mẽ nhất. Việc tạo ra những ký ức và trải nghiệm tổng thể này không chỉ cần thiết
cho sự tồn tại lâu dài của các xưởng thủ công mà cho bất kỳ doanh nghiệp nào,
trong bất kỳ ngành nào.
Công thức là: Trí nhớ = Giá trị của sản phẩm / Dịch vụ + Mức độ tương
tác + Môi trường.
Có vài bạn trẻ hỏi tôi rằng nhiều vấn đề về nghề thủ công quá trừu tượng,
rất xa vời so với công việc cơm áo của họ. Vì vậy để dễ hiểu, tôi nói về việc
làm chiếc bánh sinh nhật cho buổi sinh nhựt của con hoặc cháu các bạn đã trải
qua các nền kinh tế như thế nào. Câu chuyện cũng dựa vào một chuyên đề trên Harvard
Business rewiew khá lâu rồi, như sau:
- Giai đoạn 1: Thời kỳ mà cha mẹ (ông/bà) các bạn sống, cả nước làm
nông nghiệp nên tạm gọi là nền kinh tế nông nghiệp (hoặc gần hơn như thời bao cấp).
Các bà mẹ đã làm bánh sinh nhật giai đoạn này thường là trộn các nguyên liệu
nông sản (bột, đường, bơ và trứng) với nhau rồi đêm nướng .... để ra cái bánh
sinh nhật. Chi phí không nhiều vì phần nhiều là cây nhà lá vườn, chỉ tốn kém
vài đồng cho các phụ liệu. Cả nhà, hàng xóm, bạn bè quây quần chung quanh chiếc
bánh để thưởng thức, chung vui.
- Giai đoạn 2: Khi nền kinh tế công nghiệp dựa trên hàng hóa phát triển,
các bà mẹ đã trả nhiều tiền hơn chút xíu nữa, ví dụ 5-10 đồng, để mua vài gói bột
làm bánh có các thành phần trộn sẵn về pha với nước theo hướng dẫn rồi đêm nướng.
Các bà mẹ không cần bận tâm vì phải cân đo bột, trứng, nướng bánh gì cả. Tốn
thêm chút tiền nhưng không mất nhiều công sức. Giai đoạn này, chiếc bánh vẫn là
nhân vật chính trong buổi sinh nhật.
- Giai đoạn 3: Sau này, khi nền
kinh tế dịch vụ phát triển và các dịch vụ chi phối mọi thứ, các bậc cha mẹ cũng
vì bận rộn nhiều hơn, đã đặt mua chiếc bánh từ cửa hàng làm bánh và nhận đúng
chiếc bánh theo yêu cầu của mình và phải trả tiền lớn hơn 50-100 đồng. Giá chiếc
bánh đã gấp mười, hai mươi lần so với mua bột trộn sẵn các thành phần được đóng
gói. Chiếc bánh vẫn còn giữ vai trò chính trong tiệc sinh nhật. Việc trả tiền
cho các dịch vụ nhiều hơn nhưng bù lại là không mất thì giờ, công sức, bánh
ngon hơn, mùi vị khác lạ vì được thợ bật thầy làm ra, được hàng xóm, bè bạn thích
thú. Dĩ nhiên các giai đoạn này không chấm dứt hẳn.
- Giai đoạn 4: Bắt đầu từ những năm 1990, các bậc cha mẹ không làm
bánh sinh nhật hay thậm chí không vất vả tổ chức tiệc sinh nhật cho con nữa.
Thay vào đó, họ chi ra vài ba ngàn đồng trở lên để thuê bên ngoài tổ chức toàn
bộ sự kiện sinh nhật. Lúc này, các công ty tổ chức sự kiện tặng chiếc bánh sinh
nhật miễn phí. Bánh sinh nhật không còn ở vị trí trung tâm của buổi kỷ niệm
sinh nhật nữa mà trở thành món hàng khuyền mãi. Đứa trẻ và gia đình, bạn bè đến
dự sinh nhật không quan tâm nhiều về chiếc bánh sinh nhật. Chiếc bánh không thể
thiếu nhưng nó chiếm một phần nhỏ trong buổi sinh nhật. Mọi người thưởng thức
những gì mà công ty sự kiện thiết kế và thực hiện. Sau buổi sinh nhật, thứ còn
lại lâu dài ở những người tham dự sinh nhật nằm trong tâm trí chứ không phải ở
trên đầu lưỡi và trong bụng. Cái có được trong tâm trí sau buổi sinh nhật là
các trải nghiệm.
Toàn bộ lịch sử tiến bộ kinh tế có thể được tóm tắt lại trong quá
trình tiến hóa bốn giai đoạn của chiếc bánh sinh nhật là như vậy. Hiện nay
chúng ta và một phần thế giới đang ở giai đoạn thứ tư này. Nhưng phần còn lại lớn
hơn kia của thế giới đang bước vào một giai đoạn thứ năm. Trong giai đoạn này
người ta thích quay lại cùng nhau làm chiếc bánh sinh nhật với người thợ bật thầy
để khám phá vì sao và từ đâu các nghệ nhân đã làm ra những chiếc bánh sinh nhật
nổi tiếng. Những người này là những người ham hiểu biết, muốn hoàn thiện bản
thân mình và đặc biệt họ có nhiều khả năng tài chính để chi tiêu hữu ích. Họ muốn
quay lại làm chiếc bánh không giống như làm chiếc bánh sinh nhật cho con cái xa
xưa mà họ muốn thảo mãn, trãi nghiệm sự sáng tạo, hoàn thiện kỹ năng.
Mỗi làng nghề là một trung tâm tri thức và kỹ năng thủ công. Ở đó có
các nghệ nhân bậc thầy. Các nghệ nhân làng nghề, thợ thủ công là những người
làm công việc sáng tạo đồng thời là người truyền kỹ năng đó, ít nhất là hình ảnh
của họ truyền tinh thần thủ công cho mọi người.
Đây có vẻ là một thời điểm tốt để xem xét lĩnh vực thủ công trong nước,
“Nghề thủ công như một dịch vụ.” Mặc dù, trên thế giới, ban đầu nghề
thủ công nổi lên như một phản ứng chống lại hệ thống công nghiệp, nhưng phong
trào thủ công thế giới vẫn phát triển theo thời gian. Bây giờ chúng ta đang bước
vào giai đoạn hậu công nghiệp, nền công nghiệp 4.0, nơi mà nhiều lao động trong
nhà máy là robot, chúng ta có cơ hội mở rộng tầm nhìn của mình để nhìn nhận nghề
thủ công quý giá bao gồm các nghề thủ công trong đời thường.
Đây là định hướng cho cuộc hành trình để tìm cách khám phá nguồn năng
lượng to lớn của nghề thủ công trong cuộc sống của chúng ta ngày nay. Một ví dụ
quan trọng có thể được tìm thấy ở Mauritius (Ấn độ). Nhiều sinh viên theo học tại
Viện Mahatma Gandhi (mgirti.ac.mu/) đến học cách sáng tạo các tác phẩm nghệ thuật,
chẳng hạn như tác phẩm điêu khắc. Trong khi đó, họ cũng tham gia thực hiện các chế
tác điêu khắc hoa văn đặc trưng trong các lễ hội văn hóa cộng đồng. Những chế
tác ấy không bao giờ được dùng để trưng bày trong các phòng trưng bày nghệ thuật,
nhưng vô hình chung chúng như các tác phẩm nghệ thuật. Tuy nhiên, sự kết hợp giữa
kỹ năng và truyền thống của họ đảm bảo sự chú ý của chúng ta như một phần của văn
hòa thế giới mà chúng ta tìm cách tán dương và ủng hộ (Kevin Murray, 2018).
Điều này cũng có thể nhìn thấy ở nhiều nền văn hóa của các cộng đồng thiểu
số, những nền văn hóa đang vật lộn để tìm chỗ đứng trong nghề thủ công như Trà
Vinh, An Giang, Ninh Thuận chẳng hạn. Những đồ vật của họ được làm một cách
khéo léo, đẹp và có ý nghĩa, nhưng được làm cho mục đích nghi lễ và sau đó ít
được sử dụng. Sản phẩm từ nghề làm đồ vàng mã, nhan, đèn … cũng tương tự.
Một vai trò quan trọng của những kiệt tác thủ công là chúng kết nối
chúng ta theo dòng thời gian. Chúng có giá trị lâu hơn thế hệ hiện tại và đại
diện cho đỉnh cao của thành tựu thủ công. Ngược lại, những trải nghiệm, cho dù
mãnh liệt đến đâu, đều dựa trên con người với tư cách là cá nhân cụ thể. Những
trải nghiệm về nghề thủ công không thể sâu sắc như đào tạo thợ thủ công nhưng
là cách để duy trì mối quan hệ xã hội bền chặt, đây thường là động lực đằng sau
việc mua hàng thủ công lưu niệm.
Kinh tế trải nghiệm nghề thủ công mang lại cơ hội khôi phục những thứ
quan trọng mà trong đó các đồ vật được chế tác trở thành một phần cuộc sống của
chúng ta. Nhưng đồng thời, chúng ta nên nhận thức khả năng mất đi kỹ năng
chuyên môn và sự đổi mới nếu nặng về dịch vụ mà bỏ qua các thuộc tính di sản
văn hóa, do đó cần có sự hợp tác tập thể liên tục để đạt được sự xuất sắc trong
nghề.
Tất nhiên, nền kinh tế trải nghiệm sẽ có những hậu quả tích cực và
tiêu cực đối với hoạt động thủ công. Điều quan trọng bây giờ là xem xét kỹ tác
động của nó để tìm ra cách làm phù hợp; nâng cao vai trò của người thực hành
nghề thủ công bằng những phương tiện nào và thông qua những dịch vụ nào? Thật hữu
ích khi bắt đầu những chia sẻ “kinh nghiệm” cùng nhau về kinh tế trải nghiệm thủ
công.
Không có ngành kinh doanh nào sẽ hoàn chỉnh nếu không có kinh tế trải
nghiệm. Nhưng kinh tế trải nghiệm nghề thủ công cũng đặt ra những vấn đề hệ trọng,
cả mặt tích cực và tiêu cực của nó, ví như một công việc lặp đi lặp lại làm
thui chột động lực sáng tạo.
Để kết thúc phần này, tôi xin nhắc lại bài viết trước “Tinh thần nghề
thủ công trong sản xuất, kinh doanh hiện đại” với một ví dụ khác.
Chubb là công ty bảo hiểm P&C hàng đầu tại Hoa Kỳ, hoạt động tại
54 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có Việt Nam. Trong phần giới thiệu về công ty, Chubb tuyên
bố: Chúng tôi kết hợp sự chính xác của nghề thủ công với hàng chục năm kinh
nghiệm để hình thành, chế tác và cung cấp dịch vụ bảo hiểm tốt nhất cho các cá
nhân và gia đình, và các doanh nghiệp thuộc mọi quy mô (xem:
chubb.com/us-en/about-chubb/).
Khi nghĩ đến bảo hiểm, chắc hẳn bạn sẽ nghĩ đến những thảm họa thiên
nhiên, hoặc tai nạn, hoặc một chồng tài liệu lớn, nhỏ. Tại Chubb, chúng tôi
nghĩ về mọi thứ theo cách khác. Đối với chúng tôi, bảo hiểm là về một: nghề thủ
công khéo léo. Đó là con người của chúng tôi. Đó là những gì chúng tôi làm. Đó
là cách chúng tôi phục vụ khách hàng của mình. Đó cũng là sự khác biệt của
Chubb.
Nghề thủ công là tạo ra một thứ gì đó ngay từ vạch xuất phát. Đó là về
việc đúc kết và định hình phạm vi bảo hiểm của chúng tôi thành chính xác những
gì khách hàng của chúng tôi cần. Đó là về việc có các kỹ năng và chuyên môn để
tìm ra cách tốt nhất để thực hiện công việc và sau đó hoàn thành nó. Tại Chubb,
chúng tôi không bào gỗ thích thành mặt bàn cao cấp hoặc bản lề và giá đỡ bằng
thép. Nhưng dù sao chúng tôi cũng là những người thợ thủ công. Chúng tôi kết hợp
niềm đam mê phục vụ với kinh nghiệm chuyên sâu và sức mạnh tài chính đặc biệt để
cung cấp các sản phẩm bảo hiểm tốt nhất có thể cho mọi người và cho các doanh
nghiệp - lớn và nhỏ.
Chính những phẩm chất của nghề thủ công trở thành tiêu chuẩn được xã hội
đánh giá cao và là giá trị, niềm tư hào của những công ty toàn cầu như Chubb. Để
gia nhập vào những công ty như vậy, người lao động ngày càng phải tự học hỏi,
rèn luyện tinh thần thủ công. Chỉ tiếc rằng, trên trang web giới thiệu về Chubbtại Việt Nam không hiển thị tiếng Việt về tinh thần này mà phải đọc bằng tiếng
Anh theo đường dẫn đến trang chính của Chubb ?!
(Còn tiếp)
NGUYỄN LỰC
![]() |
Trải nghiệm nghề làm gốm tại Nhật Bản |
0 Bình luận