Nghị quyết 29 TW 6 Khóa XIII ngày 17/11/2022 - Đột phá về vị thế của kinh tế tư nhân
CGCC. VŨ QUỐC TUẤN,
Chủ tịch Hội đồng Tư vấn – Hiệp hội Làng nghề Việt Nam
Từ những năm công cuộc Đổi Mới được triển khai đến nay, vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân, trong đó có kinh tế làng nghề luôn là một vấn đề then chốt được đặc biệt quan tâm trong tiến trình xây dựng nền kinh tế thị trường nước ta.
ĐỘT PHÁ MỚI TỪ THỰC
TIỄN
Thời gian qua, việc thực hiện Công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH)
đất nước tuy đã đạt được những thành tựu quan trọng song vẫn còn nhiều hạn chế,
cần có chủ trương của Đảng để lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời tháo gỡ, như: Tăng
trưởng kinh tế không đạt mục tiêu chiến lược đề ra, tốc độ có xu hướng giảm
dần; có nguy cơ tụt hậu và rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Nội lực của nền
kinh tế còn yếu, năng suất lao động chậm được cải thiện, năng lực độc lập, tự
chủ thấp. Công nghiệp phát triển thiếu bền vững. Các ngành dịch vụ quan trọng
chiếm tỷ trọng nhỏ, mối liên kết với các ngành sản xuất còn yếu, v.v...
Riêng kinh tế tư nhân (trong đó có kinh tế làng nghề) mấy năm gần đây, đã chiếm khoảng 40% GDP; thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế, đóng góp khoảng 34% thuế thu nhập doanh nghiệp, cao hơn mức 27,7% của 17 doanh nghiệp nhà nước, góp phần quan trọng cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội. Tuy nhiên, khu vực kinh tế tư nhân trong nước chưa đáp ứng được vai trò là một động lực quan trọng thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa; vẫn còn những rào cản, nút thắt cần tháo gỡ để phát triển hơn nữa với tư cách là khu vực kinh tế có tiềm năng to lớn của dân tộc.
Đại hội XIII (năm 2021) đã quyết định: "Tiếp tục đẩy mạnh
CNH-HĐH dựa trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo". Đặc
biệt là trong bối cảnh hiện nay, khi đất nước ta đã có thế và lực mới; chúng ta
đang xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả. Bên cạnh đó, tình hình thế giới, khu vực
tiếp tục có nhiều biến động nhanh, phức tạp, khó lường; nhất là tác động mạnh
mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang đặt ra nhiều vấn đề mới
cần được nhận thức và khai thác. Từ đó đặt ra những yêu cầu thực tiễn cần phải
ban hành một Nghị quyết mới để đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước. Nghị quyết 29 TW6
Khóa XIII được ban hành đã khẳng định những định hướng để cụ thể hóa các chủ
trương của Đảng nêu trong Văn kiện Đại hội XIII.
Dưới đây, xin tóm tắt những nội dung
cốt lõi của Nghị quyết 29 TW6 Khóa XIII ngày 17/11/2022 để làng nghề chúng ta
cùng nghiên cứu (những câu đặt trong ngoặc kép là trích từ Nghị quyết 29).
Một là, nhận thức sâu sắc thêm về CNH-HĐH là "quá trình chuyển
đổi căn bản, toàn diện nền kinh tế và đời sống xã hội dựa chủ yếu vào sự phát
triển của công nghiệp và dịch vụ trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới
sáng tạo". Vai trò, vị trí và tầm quan trọng của CNH-HĐH với sự phát triển
kinh tế-xã hội "là nhiệm vụ trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế-xã
hội đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, và chủ động, tích cực hội
nhập quốc tế sâu rộng, phát triển nhanh và bền vững, trở thành nước phát triển,
có thu nhập cao". Trong quá trình CNH-HĐH đất nước, cần "bảo đảm hài
hòa giữa phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,
bảo vệ môi trường; gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với quá trình đô thị hóa, xây
dựng nông thôn mới, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và
chuyển dịch cơ cấu lao động".
Hai
là, để thực hiện thành công CNH-HĐH, yêu cầu then chốt là "phải
khai thác và phát huy tốt nhất mọi tiềm năng, lợi thế của đất nước, của từng
vùng và địa phương; lợi thế của nền kinh tế đi sau và đang trong thời kỳ dân số
vàng; kết hợp đồng bộ, hiệu quả giữa phát triển tuần tự với đi tắt đón đầu;
chuyển dịch nhanh từ gia công, lắp ráp sang chế tạo, chế biến, thiết kế và sản
xuất tại Việt Nam. Tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm
lượng tri thức và công nghệ cao, chú trọng đẩy mạnh dịch vụ hóa các ngành công
nghiệp. Coi trọng phát triển công nghiệp chế tạo, chế biến là then chốt, chuyển
đổi số là phương thức mới có tính đột phá để rút ngắn quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa; CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ
ưu tiên hàng đầu".
Ba là, để phát huy vai trò của các thành phần kinh tế, đặc biệt quan trọng là nguồn lực từ dân, tại
Nghị quyết 29 TW 6 Khóa XIII, tư duy lý luận của Đảng về chủ thể và nguồn lực
thực hiện CNH, HĐH đã được bổ sung, hoàn chỉnh, xác định “Nguồn lực trong
nước là cơ bản, chiến lược, lâu dài và quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan
trọng, đột phá; doanh nghiệp trong nước (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước và
doanh nghiệp tư nhân) là động lực chính, chủ đạo; doanh nghiệp FDI có vai trò
quan trọng, đột phá”. Nghị
quyết cũng nhấn mạnh các trọng tâm, trọng điểm, các lĩnh vực ngành nghề cần ưu
tiên, nhằm tập trung nguồn lực thực hiện để phát trển các cực tăng trưởng, các
ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn, công
nghiệp hỗ trợ, các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Tăng cường liên kết
ngành và liên kết vùng.
Bốn là, nhấn mạnh vai trò của CNH-HĐH nông nghiệp,
nông thôn trong chiến lược CNH-HĐH đất nước, Nghị quyết yêu cầu triển khai thực
hiện đồng bộ, hiệu quả nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Ðảng về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn, Chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề Việt
Nam giai đoạn 2021-2030. Ưu tiên đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng
nông nghiệp, nông thôn, hạ tầng kết nối nông thôn với đô thị, nhất là hạ tầng
thủy lợi, giao thông vận tải, hạ tầng thương mại, kho bãi, bảo quản, chế biến
nông sản; đẩy nhanh xây dựng hạ tầng số và dữ liệu số nông nghiệp, nông thôn.
Xin nhấn mạnh: Nghị quyết
29 TW6 Khóa XIII khẳng định “doanh nghiệp trong nước (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp
tư nhân) là động lực chính, chủ đạo” trong quá trình CNH-HĐH đất nước. Đây
là một đột phá mới, rất quan trọng trong nhiệm vụ đổi mới thể chế xưa nay chưa
từng có về vị thế của kinh tế tư nhân; một nhận thức rất mới, cầu thị và thực
tế, qua kinh nghiệm nhiều năm xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta. Kể cả
trong Nghị quyết số 10-NQ ngày 3/6/2017 của TW5 Khóa XII “Về phát triển kinh tế tư nhân trở thành
một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa”, khu vực kinh tế tư nhân cũng mới chỉ được xác định là “một động
lực quan trọng” của nền kinh tế.
Xin phân tích thêm về nội dung “động lực”,
“chủ đạo” của kinh tế làng nghề cùng với kinh tế nhà nước trong vị thế mới.
Chúng ta đều hiểu Kinh tế nhà nước không chỉ gồm doanh nghiệp nhà nước (DNNN) mà bao
gồm hai cấu thành sau: (i) Các DN mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ và DN mà
Nhà nước nắm cổ phần hoặc phần vốn chi phối; DNNN đang nắm giữ những lĩnh vực
then chốt của nền kinh tế; (ii) Các tài sản thuộc sở hữu nhà nước và sở hữu
toàn dân như đất đai, rừng, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên
nhiên, tư liệu sản xuất, ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia...mà Nhà nước được
giao quyền đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Với lực lượng ấy, kinh tế
nhà nước giữ vai trò “động lực”, “chủ đạo” của nền kinh tế là lẽ đương nhiên.
Kinh tế làng nghề là một bộ phận của
kinh tế tư nhân - mà bản chất là kinh tế dân tộc có mặt ở khắp các vùng trong cả
nước, có đặc trưng là nơi lưu giữ tinh hoa văn hóa của nghề thủ công truyền thống,
với các giá trị to lớn về văn hóa, kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế. Với vai
trò “chủ đạo”, kinh tế làng nghề bổ trợ cho KTNN trong những ngành nghề công
nghiệp phù trợ, với mạng lưới rộng khắp các hộ kinh doanh làm “vệ tinh” cho
KTNN để cùng bảo đảm vai trò chủ dạo. Kinh tế làng nghề còn giữ vai trò “chủ đạo”
trong bảo tồn và phát huy giá trị nghề thủ công và nghệ nhân làng nghề. Với vai
trò “động lực”; kinh tế làng nghề thúc đẩy thanh niên nông thôn khởi nghiệp, mở
mang ngành nghề thủ công, qua đó giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, tạo hệ
sinh thái mới trong chấn hưng kinh tế dân tộc, phát huy sức mạnh sáng tạo của làng
nghè qua Chương trình OCOP, góp phần xây dựng nông thôn mới.
VẬN HỘI MỚI CHO LÀNG
NGHỀ
Riêng kinh tế tư nhân (trong đó có kinh tế làng nghề) mấy năm gần đây, đã chiếm khoảng 40% GDP; thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế, đóng góp khoảng 34% thuế thu nhập doanh nghiệp, cao hơn mức 27,7% của 17 doanh nghiệp nhà nước, góp phần quan trọng cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội. Tuy nhiên, khu vực kinh tế tư nhân trong nước chưa đáp ứng được vai trò là một động lực quan trọng thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa; vẫn còn những rào cản, nút thắt cần tháo gỡ để phát triển hơn nữa với tư cách là khu vực kinh tế có tiềm năng to lớn của dân tộc.
![]() |
Các cơ sở sản xuất kinh doanh làng nghề cần thể hiện xứng với vị thế là một thành phần của “động lực chính, chủ đạo” trong CNH, HĐH đất nước. |
Nghị quyết 29 TW6 Khóa XIII phác họa con đường CNH-HĐH đưa đất nước đến tương lai hùng cường và thịnh vượng trong mấy chục năm tới đã khẳng định rõ hơn nữa vị trí, vai trò của doanh nghiệp tư nhân – cũng là kinh tế tư nhân, kinh tế dân tộc, trong đó có những cơ sở sản xuất kinh doanh làng nghề. Đây thật sự là một vận hội mới rất thuận lợi để các cơ sở sản xuất kinh doanh, các làng nghề phát triển mạnh mẽ xứng với giá trị văn hóa và tiềm năng to lớn của nghề thủ công nước ta. Xin gợi ý một số việc sau đây.
Trong khi triển khai các hoạt động trên đây, các cơ sở sản xuất kinh doanh làng nghề cần khai thác các chủ trương, chính sách, các đề án khuyến khích phát triển ngành nghề thủ công và làng nghề, như Nghị định số 52/2018/NĐ-CP ngày 12/4/2018 của Chính phủ “Về phát triển ngành nghề nông thôn”, “Chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề Việt Nam giai đoạn 2021- 2030” được Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 801/QĐ-TTg ngày 7/7/2022, trước mắt là những chính sách trực tiếp tháo gỡ khó khăn cho cơ sở sau đại dịch Covid-19. Điều quan trọng là các cơ sở làng nghề cần nắm vững các điều, khoản liên quan, đề xuất các biện pháp để thực hiện đạt kết quả thiết thực.
(Đã đăng Tạp chí Làng nghề Việt Nam,
số 7/2023, ngày 17/2/2023)
0 Bình luận