10 kiến nghị với các làng nghề
Làng lụa Vạn Phúc – Hà Đông được biết đến là nơi có nghề dệt lụa tơ tằm 1.000 năm tuổi duy nhất ở Việt Nam còn hoạt động đến ngày nay. |
VŨ QUỐC TUẤN
Chủ tịch Hội đồng Tư vấn – Hiệp hội Làng nghề Việt Nam
Ngày
9/9/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 105/NQ-CP “Về hỗ trợ doanh
nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh trong bối cảnh dịch Covid-19” để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc do tác động tiêu cực của
dịch Covid-19, hỗ trợ các cơ sở này ổn định sản xuất, kinh doanh, hồi phục và tạo
đà phát triển trong thời gian tới. Nghị quyết đã
đề ra 04 nhóm giải pháp nhằm tập trung khôi phục, phát triển hoạt động sản
xuất, kinh doanh gắn với bảo đảm an toàn phòng, chống dịch Covid-19; hỗ trợ,
tháo gỡ kịp thời các khó khăn, vướng mắc, điểm nghẽn cản trở hoạt động sản
xuất, kinh doanh, giảm thiểu tối đa số cơ sở phải tạm ngừng hoạt động, giải
thể, phá sản do tác động bởi dịch Covid-19.
Nghị quyết
105-CP đã đề ra mục tiêu: đến hết năm 2021 phấn đấu luỹ kế ít nhất khoảng 01
triệu lượt khách hàng là doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh được hưởng
chính sách tín dụng hỗ trợ ứng phó dịch bệnh. Đại đa số các doanh nghiệp, hợp
tác xã, hộ kinh doanh tạm ngừng kinh doanh quay trở lại hoạt động; thực hiện
đầy đủ, kịp thời các chính sách trợ giúp các cơ sở gặp khó khăn do ảnh hưởng
của dịch bệnh Covid-19. Tại cuộc họp Ban
chỉ đạo quốc gia phòng chống Covid-19, sáng ngày 11/9/2021, Thủ tướng Phạm Minh
Chính đã giao nhiệm vụ cho Bộ Y tế hoàn thiện chiến lược tổng
thể về phòng chống dịch, tập trung vào vắc-xin, xét nghiệm, điều trị, để cả nước
trở lại trạng thái bình thường mới vào năm 2022. Đây là những tín hiệu vui đối
với làng nghề chúng ta.
Để thực hiện
Nghị quyết 105-CP và các chủ trương mới của Nhà nước, bài này nêu lên 10 kiến
nghị để các cơ sở sản xuất kinh doanh làng nghề tham khảo và vận dụng.
Một là, khơi dậy ý chí phát triển. Nghị quyết Đại hội XIII đã đề
ra: “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc; phấn đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát
triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (trích
Báo cáo Chính trị tại Đại hội). Lời hiệu triệu này của Đảng cần được thấm sâu
vào mỗi cơ sở sản xuất, kinh doanh làng nghề, vào từng người lao động, biến
thành hành động và kết quả cụ thể. Mỗi cơ sở phải có lòng tự hào và tầm nhìn mới
về văn hóa làng nghề, về sự phát triển của nghề thủ công mỹ nghệ trong giai đoạn
mới của công cuộc phát triển đất nước. Cần nêu cao ý chí, khát vọng vươn lên,
phát triển làng nghề bền vững, để văn hóa làng nghề đóng góp xứng đáng vào văn
hóa dân tộc; kinh tế làng nghề thịnh vượng hơn, đời sống của cư dân làng nghề ngày
càng ấm no, hạnh phúc; mỗi làng nghề là một làng văn hóa.
Hai là, thực hiện nghiêm túc
các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 do Chính phủ đề ra. Hiện nay, do
dịch còn diễn biến phức tạp, chúng ta phải thực hiện “nhiệm vụ kép” vừa chống
dịch, vừa sản xuất, kinh doanh, cũng gọi là “sống chung với dịch Covid-19”,
thông qua các biện pháp để hạn chế, đẩy lùi dịch bệnh, từng bước mở rộng sản
xuất, kinh doanh theo lộ trình của từng địa phương. Thời gian tới, chắc chắn
dịch Covid-19 sẽ bị đẩy lùi, cả nước sẽ bước vào trạng thái bình thường mới.
Tuy nhiên, lúc đó, vẫn còn virus vì chúng ta không thể tiêu diệt nó hoàn toàn,
cho nên trong khi đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, vẫn phải “sống chung với
virus”, nhưng phải thực hiện các biện pháp để ngăn ngừa, không cho nó bùng phát
thành dịch.
Ba là, quản trị cơ sở trong “trạng thái bình thường mới”. Khi dịch bệnh
đã được đẩy lùi, sản xuất, kinh doanh của các cơ sở làng nghề được mở trở lại với
tư duy và cách làm mới, triển khai mô hình kinh doanh mới. Trong tình hình này,
có thể có những điểm mà trước đây mọi người cho là bất bình thường thì nay được
coi là bình thường; cũng có thể là những điều mà trước đây, chúng ta phấn đấu để
thực hiện thì nay, tình hình mới bắt buộc chúng ta phải thực hiện nó nhanh hơn
(ví dụ như kinh tế xanh, kinh tế số), vì nếu không thực hiện, sẽ không theo kịp
và tồn tại trong thời kỳ mới. Như vậy, cuộc sống mới đòi hỏi cả làng nghề cũng như mỗi cơ sở sản
xuất, kinh doanh phải rất năng động, linh hoạt, tăng khả năng chống chịu và
thích ứng, thay đổi tổ chức, cấu trúc sản xuất, mạnh dạn số hóa các mối quan hệ,
liên kết trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa.
Bốn là, tiếp cận và
khai thác tối đa các nguồn lực. Đó là các chính sách do các bộ, ban, ngành đã
ban hành về miễn, giảm, giãn hoãn các khoản đóng góp; tăng thêm các khoản trợ
giúp, v.v... Đó là những chính sách rất cần thiết, quan trọng trong lúc các làng
nghề gặp khó khăn, nhất là những cơ sở quy mô nhỏ đã quá sức chịu đựng trong thời
gian dài vừa qua. Các cơ sở cần năng động hơn, tranh thủ và tận dụng tốt các
chính sách hỗ trợ, đồng thời mong các cơ quan tiếp tục cải cách hành chính, giảm
thiểu các thủ tục rườm rà để các chính sách hỗ trợ sớm đến cơ sở làng nghề cần
được trợ giúp.
Một nguồn lực khác cũng rất cần cho làng nghề, đó là
các ưu đãi về xuất nhập khẩu, về thuế quan trong các hiệp định thương mại song
phương và đa phương mà nước ta đã ký kết, trong đó có 17 hiệp định thương mại tự
do thế hệ mới (FTA). Lớn nhất là Hiệp định Đối tác toàn diện khu vực (RCEP) bao
gồm 30% dân số thế giới, 30% GDP toàn cầu; tiếp theo là Hiệp định Thương mại tự
do giữa Liên minh Châu Âu và Việt Nam (EVFTA); Hiệp định đối tác toàn diện và
tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Các cơ sở làng nghề cần tìm hiểu và tận
dụng các ưu đãi trong các hiệp định này để kịp thời tổ chức sản xuất và tiêu thụ
đáp ứng đúng quy định của các hiệp định, đạt hiệu quả cao.
Năm là, đẩy mạnh nghiên cứu thị trường. Thời gian qua, do tác động
của đại dịch Covid-19, kinh tế - xã hội nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới
đang có những biến động mạnh mẽ, người tiêu dùng trong nước cũng như nước ngoài
đang có những nhu cầu mới. Cho đến nay, sản
phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam đã có mặt tại 163 quốc gia và vùng lãnh thổ
trên thế giới; thị trường Mỹ là thị trường tiêu thụ lớn nhất, bên cạnh đó là
các thị trường như Nhật Bản, Liên minh Châu Âu, Úc, Hàn Quốc. Hàng thủ công mỹ
nghệ xuất khẩu chủ yếu bao gồm năm nhóm: túi xách, ví, vali, mũ, ô, dù; đồ
chơi, dụng cụ thể thao; hàng gốm sứ; sản phẩm mây, tre, cói, thảm; gỗ mỹ nghệ. Trong
tình hình mới sau đại dịch, mỗi cơ sở, ngành nghề trong làng nghề cần phân
tích, nghiên cứu những động thái mới của thị trường để cơ cấu lại sản xuất, đáp
ứng nhu cầu của từng thị trường.
Sáu
là, tập trung nâng cao
chất lượng khâu thiết kế. Thực tế cho thấy thiết kế, tạo mẫu, tạo dáng sản phẩm
thủ công mỹ nghệ là một khâu đặc biệt quan trong thời đại mới, cần được chú trọng,
kể cả thiết kế mẫu mã sản phẩm và bao bì sản phẩm (là khâu lâu nay chưa được
chú ý) để dáp ứng yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Thực tế cũng cho
thấy, sức sáng tạo của nghề thủ công nước ta là không có giới hạn, rất cần được
phát huy. Điều đáng mừng là thời gian gần đây, đã xuất hiện nhiều nghệ nhân trẻ
tuổi, được dào tạo bài bản, đã sáng tạo nên nhiều mẫu mã mới; nhiều sản phẩm thủ
công mỹ nghệ đã thực sự là những sản phẩm có giá trị thẩm mỹ cao. Do đó, cần phải
trân trọng, bồi dưỡng và phát huy các nghệ nhân tại cơ sở cũng như thu hút sự
tham gia của các nhà thiết kế bên ngoài để nâng cao hơn nữa chất lượng khâu thiết
kế các sản phẩm thủ công mỹ nghệ.
Bẩy
là, mở rộng và tăng cường
liên kết, liên doanh. Đây là một hệ thống các biện pháp nhằm tăng thêm nguồn lực
cho cơ sở sản xuất kinh doanh làng nghề, không chỉ nâng cao năng suất, chất lượng
sản phẩm, mà còn giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm cũng như của cơ
sở làng nghề. Đó là: tăng cường quan hệ với các tổ chức dịch vụ để đổi mới quản
trị cơ sở (như ứng dụng kinh tế xanh, kinh tế số); tăng cường quan hệ với các tổ
chức thiết kế để đa dạng hóa mẫu mã sản phẩm hàng hóa; tằng cường liên kết theo
chuỗi nhằm gắn kết các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh (hoặc khôi phục
các chuỗi vừa qua bị đứt gẫy do dịch bệnh); v.v... Đây là những biện pháp rất cần
thiết mà lâu nay các cơ sở làng nghề ít chú ý, nay cần quan tâm thực hiện để đạt
hiệu quả kinh doanh cao hơn.
Tám là, nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực trong các cơ sở sản xuất
kinh doanh làng nghề. Đó là những chủ cơ sở, người bỏ vốn và điều hành, quản trị
cơ sở, đặt ra chiến lược, kế hoạch, mục tiêu sản xuất kinh doanh, là nhân vật
quyết định thành công của cơ sở. Họ cũng là những người chủ trì việc ứng dụng
khoa học, kỹ thuật tiến bộ, công nghệ 4.0 vào quản trị cơ sở. Chủ cơ sở (nhất
là chủ hộ kinh doanh) cần được đào tào, bồi dưỡng, cập nhật những kiến thức cần
thiết cho nghề quản trị. Một nhân vật khác là đội ngũ nghệ nhân, thợ giỏi. Lâu
nay, chúng ta vẫn có những cuộc bình chọn, tôn vinh nghệ nhân, song vẫn cần những
chính sách để tiếp tục bồi dưỡng, phát huy cũng như chăm lo đời sống của nghệ
nhân. Điều đặc biệt là trong nhiều hộ kinh doanh, có những chủ cơ sở đồng thời
là nghệ nhân, lại có nhiều người trẻ tuổi đang sôi nổi, hăng hái cống hiến cho
làng nghề. Đội ngũ người lao động trong cơ sở cũng cần được quan tâm bồi dưỡng
cả về tinh thần và vật chất, để họ cũng từng bước trưởng thành.
Chín là, đẩy
mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ. Theo các chuyên gia, thế giới hậu Covid-19 sẽ ứng dụng phổ biến những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư, nhất là kinh tế số. Kinh tế số được hiểu là một nền
kinh tế vận hành chủ yếu dựa trên công nghệ số, đặc biệt là các giao dịch điện
tử tiến hành thông qua Internet. Các cơ sở làng nghề cần khẩn trương tìm hiểu,
vận dụng công nghệ số trong các khâu sản xuất kinh doanh, từ thiết kế đến tổ chức
sản xuất, làm việc trực tuyến, xây dựng mã xuất sứ QR-code, gắn kết chuỗi sản
xuất, ứng dụng thương mại điện tử, số hóa các di sản văn hóa, các điểm du lịch
làng nghề, v.v. Đây là một loại giải pháp công nghệ rất có tác dụng mà các cơ sở
làng nghề cần vận dụng để nâng cao năng suất, tăng giá trị gia tăng của sản phẩm.
Kinh tế xanh cũng là một xu hướng đang được khuyến khích ứng dụng
trên thế giới. Đó là nền kinh tế vừa mang lại phúc lợi cho con người, vừa giảm
thiểu các nguy cơ về môi trường và suy giảm sinh thái; một nền kinh tế có mức
phát thải thấp, sử dụng hiệu quả và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo đảm
giảm thiểu ô nhiễm môi trường, sử dụng hiệu quả năng lượng và tài nguyên, ngăn
chặn sự suy giảm đa dạng sinh học của hệ sinh thái. Các cơ sở sản xuất kinh
doanh làng nghề cần vận dụng các biện pháp của kinh tế xanh để bảo vệ môi
trường, nhất là những cơ sở đang có sản xuất gây ô nhiễm.
Mười là, xây dựng làng nghề văn hóa. Thực tế cho thấy mỗi làng nghề truyền
thống là một kho báu về văn hóa làng nghề; nơi đó có những sản phẩm được công
nhận là di sản văn hóa vật thể, những nghề thủ công được công nhận là di sản
văn hóa phi vật thể, có sản phẩm được công nhận là báu vật quốc gia; nơi có
những đền thờ các vị Tổ nghề, những người đã mang về cho dân làng những nghề
thủ công nay đã trở thành nghề truyền thống; nơi có đội ngũ nghệ nhân dồi dào
sức sáng tạo, thường xuyên tạo ra sản phẩm có kiểu dáng, mẫu mã mới, làm vẻ
vang, rạng rỡ làng nghề; nơi có những sản phẩm du lịch đặc sắc, cả du lịch văn
hóa, du lịch tâm linh có giá trị; ở đó có môi trường sống thanh lịch, lành
mạnh, không gian văn hóa tiến bộ, v.v... Cuộc sống đang đòi hỏi chúng ta nỗ lực
xây dựng mỗi làng nghề truyền thống thành một làng nghề văn hóa, góp phần xây
dựng nông thôn mới.
Trên đây là tóm tắt 10 kiến nghị với các làng nghề để quán triệt
các nghị quyết của Đảng và Nhà nước, duy trì sản xuất, kinh doanh trong điều
kiện hiện nay, đồng thời chuẩn bị nền tảng phát triển sản xuất, kinh doanh khi
dịch Covid-19 đã bị đẩy lùi, nước ta bước vào trạng thái bình thường mới. Có
nhiều vấn đề mới rất quan trọng, bài này chưa thể đi sâu, mới chỉ đề xuất được
những định hướng. Rất mong các làng nghề tham khảo và vận dụng phù hợp với đặc
điểm của mỗi cơ sở, đạt nhiều thành tựu mới trong thời gian tới.
(Đã đăng Tạp chí Làng nghề
Việt Nam.
số 38 (71) /2021, ngày 17/9/2021)
0 Bình luận