BẢN THẢO MỘT TIỂU LUẬN: GIÁ TRỊ CỦA NGHỀ THỦ CÔNG VÀ LÀNG NGHỀ (20)

Lễ hội đua ghe ngo truyền thống của đồng bào Khmer có nhiều nghi thức, là nét văn hóa độc đáo của đồng bào Khmer ở ĐBSCL muốn bày tỏ lòng tri ân của mình đối với thần nước, thần đất và cầu xin sự tha thứ của các vị thần về những hành động của con người đã làm tổn hại đến đất, nước và môi trường. Ảnh: TTXVN
 
               NGUYỄN LỰC 
    Phó Chủ tịch Hội đồng tư vấn, 
   Hiệp hội Làng nghề Việt Nam 

PHẦN 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN THẢO LUẬN VÀ NHÌN NHẬN 
 
VĂN HÓA SỐNG CỦA CÁC DÂN TỘC (bài 3) 
Cơ sở lý luận về văn hóa phi vật thể trong cơ chế UNESCO về Bảo vệ Di sản Văn hóa Phi vật thể 
 
4- Định nghĩa theo Công ước UNESCO 2003 về bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể và Luật Di sản văn hóa Việt Nam.
 
Định nghĩa theo Công ước về bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO, tại phiên họp thứ 32 tại Paris từ 29 tháng 9 đến 17 tháng 10 năm 2003: “Di sản văn hóa phi vật thể” được hiểu là các tập quán, các hình thức thể hiện, biểu đạt, tri thức, kỹ năng – cũng như những công cụ, đồ vật, đồ tạo tác và các không gian văn hóa có liên quan – mà các cộng đồng, các nhóm người và trong một số trường hợp là các cá nhân công nhận là một phần di sản văn hóa của họ. Di sản văn hóa phi vật thể được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác; các cộng đồng và các nhóm người không ngừng tái tạo để chúng thích nghi với môi trường, với mối quan hệ qua lại giữa cộng đồng với tự nhiên và lịch sử của họ, đồng thời hình thành trong họ một ý thức về bản sắc và sự kế tục, qua đó khích lệ sự tôn trọng đối với sự đa dạng văn hóa và tính sáng tạo của con người. Công ước này, chỉ xét đến những di sản văn hóa phi vật thể phù hợp với các văn kiện quốc tế hiện hành về quyền con người, cũng như những yêu cầu về sự tôn trọng lẫn nhau giữa các cộng đồng, các nhóm người và cá nhân, và về phát triển bền vững. “Di sản văn hóa phi vật thể” như định nghĩa ở trên, được thể hiện ở những hình thức sau:
a- các truyền thống và biểu đạt truyền khẩu, bao gồm ngôn ngữ là phương tiện của di sản văn hóa phi vật thể;
b- nghệ thuật trình diễn;
c- tập quán xã hội, tín ngưỡng và lễ hội;
d- tri thức và tập quán liên quan đến tự nhiên và vũ trụ;
e- nghề thủ công truyền thống. (3)
 
4.1- Những đặc tính quan trọng về khái niệm và ý nghĩa của di sản văn hóa phi vật thể nêu trên:
 
Trong định nghĩa này có một số yếu quan trọng biểu hiện ngầm hoặc rõ ràng đều có ý nghĩa đặc biệt trong việc hiểu đầy đủ ý nghĩa và giá trị vốn có của di sản văn hóa phi vật thể đối với cộng đồng quốc tế. Cụ thể, các yếu tố này là: a) sự tự công nhận hay sự tự nhận dạng của cộng đồng, nhóm và cá nhân liên quan về di sản văn hóa phi vật thể như một phần di sản văn hóa của họ; b) sự tái tạo liên tục của di sản văn hóa phi vật thể như một sự đáp lại đối với sự phát triển lịch sử và xã hội của các cộng đồng và các nhóm liên quan; c) sự kết nối sâu sắc của di sản liên quan với bản sắc riêng của những người sáng tạo ra nó và người lưu giữ nó; d) điều kiện của “tính xác thực”, là một yêu cầu ẩn tàng của di sản văn hóa phi vật thể; và e) mối tương quan sâu sắc của di sản văn hóa phi vật thể với quyền con người. Xin được nói rõ hơn như sau:
 
a- Sự tự nhận dạng: yếu tố tự nhận dạng là điều cần thiết cho sự hiểu biết đúng đắn sự khác biệt căn bản trong cơ sở lý luận về bảo vệ di sản văn hóa vật thể. Trên thực tế, theo cách tiếp cận của Công ước Di sản Thế giới, di sản vật thể được bảo vệ quốc tế theo giá trị phổ quát nổi bật của nó, tức là, theo tiêu chí gần như là các chỉ số giá trị, còn bản chất của di sản văn hóa phi vật thể nhất định phải do cộng đồng tự công nhận và xem chúng như là một phần của di sản văn hóa của các cộng đồng, các nhóm và các cá nhân liên quan. Nói cách khác, việc phân loại di sản văn hóa vật thể được thực hiện thông qua đánh giá khách quan về giá trị nổi bật của chúng theo quan điểm của sự đánh giá có giá trị toàn cầu. Ngược lại, sự hiện diện của yếu tố tự nhận dạng giữa các yếu tố cấu thành làm cho di sản phi vật thể trở nên có giá trị dưới góc nhìn chủ quan của những người tạo ra chúng và những người lưu giữ, kế thừa chúng, những người nhận ra di sản là một phần thiết yếu của sự kế thừa văn hóa bình dị của họ, mặc dù chúng có thể hoàn toàn vô giá trị đối với các nhà quan sát bên ngoài.
 
Ví dụ, mới đây thôi, khi bàn về việc đệ trình UNESCO một số di sản văn hóa phi vật thể, có người trách móc UNESCO không công “công nhận”, “vinh danh” các di sản văn hóa phi vật thể do Việt Nam đệ trình làm cho “Việt Nam bị thiệt thòi”. Trong khi, đối với di sản văn hóa phi vật thể UNESCO không có quyền công nhận chúng mà chỉ có cộng đồng, nhóm và cá nhân liên quan về di sản văn hóa phi vật thể xem xét, chấp nhận những thứ đó như một phần di sản văn hóa của họ và họ tự nhận dạng và tự công nhận. UNESCO chỉ ghi vào danh sách văn hóa phi vật thể đại diện và cần bảo vệ cho nhân loại mà thôi. Gần đây, điều này đã được nhận thức lại. Báo chí dần dần cũng viết đúng hơn, ví như di sản văn hóa phi vật thể A, B… được ghi danh.
 
Theo thống kê 2009, hiện cả nước Việt Nam có 7.966 lễ hội; trong đó có 7.039 lễ hội dân gian (chiếm 88,36%), 332 lễ hội lịch sử (chiếm 4,16%), 544 lễ hội tôn giáo (chiếm 6,28%), 41 lễ hội du nhập từ nước ngoài (chiếm 0,12%), còn lại là lễ hội khác (chiếm 0,5%).Các địa phương có nhiều lễ hội là Hà Nội, Bắc Ninh, Hà Nam, Hải Dương và Phú Thọ. Việt Nam là một quốc gia đã có hàng nghìn năm lịch sử. Cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam có một nền văn hóa mang bản sắc riêng. Chính những nét đó làm nên cốt cách, hình hài và bản sắc của dân tộc Việt Nam.


Trong kho tàng văn hóa của dân tộc Việt Nam, sinh hoạt lễ hội là nét văn hóa rất đặc trưng. Lễ hội là sinh hoạt văn hóa dân gian hầu như có mặt ở khắp mọi miền đất nước. Nhiều lễ hội ra đời cách đây hàng nghìn năm đến nay vẫn được duy trì. Lễ hội ở Việt Nam bao giờ cũng hướng tới một đối tượng thiêng liêng cần suy tôn là nhân thần hay nhiên thần. Đó chính là hình ảnh hội tụ những phẩm chất cao đẹp nhất của con người. Giúp con người nhớ về nguồn cội, hướng thiện và nhằm tạo dựng một cuộc sống tốt lành, yên vui. Đề cấp đến lễ hội chúng ta dễ nhìn rõ hơn về yếu tố tự nhận dạng, tự công nhận vì lễ hội địa phương thường chỉ thuộc một nhóm cộng đồng nhất định.
 
Trong khi, tiếng Việt là di sản văn hóa phi vật thể thuộc về cộng đồng lớn và giàu bản sắc nhất, tuy nhiên giọng nói, dùng từ ngữ các vùng miền thể hiện bản sắc ngôn ngữ của các nhóm, công đồng văn hóa đa dạng nhưng hiện được dạy trong nhà trường với chỉ một giọng đọc, nói. Đó là nhận thức sai và có thể làm mất bản sắc của tiếng Việt. Từ trao đổi tình cảm, giao lưu, trò chuyện, đến tư duy, mọi người trong một cộng đồng đều dựa trên cùng nền tảng của từng phương ngữ. Người miền Trung có câu: “chửi cha không bằng pha giọng” như là sự phản đối của cộng đồng với cách dạy tiếng Việt làm mất bản sắc của các nhóm, công động nói tiếng Việt từ xa xưa chứ không phải bây giờ mới thấy. Giọng nói là bản sắc ngôn ngữ của từng công đồng lớn hoặc nhỏ, gần gũi, gắn liền với họ hàng ngàn năm và là yếu tố quan trọng hàng đầu để nhận dạng. Cần tôn trọng sự đa dạng văn hóa giữa các cộng đồng khác nhau trong một quốc gia và giữa các quốc gia.
 
Trong thế giới phẳng hoặc tiến trình hội nhập quốc tế, toàn cấu hóa, chỉ có hội nhập kinh tế và một số lĩnh vực khác nhưng không có hội nhập văn hóa, chỉ có giao lưu văn hóa, tiếp biến văn hóa giữa các nền văn hóa. Sự nhậm lẫn này có thể đánh mất bản sắc, mất bản sắc là mất chủ quyền văn hóa.
 
b- Sự tái tạo liên tục: Sự tự nhận dạng, như nói ở trên, được liên kết chặt chẽ với đặc điểm của di sản văn hóa phi vật thể khi chúng được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, và liên tục được tái tạo bởi các cộng đồng, các nhóm người hoặc cá nhân để đáp ứng với môi trường, xã hội, sự tương tác của họ với thiên nhiên và lịch sử của chính họ.
 
Nghệ nhân trẻ Vũ Như Quỳnh đã thành công khi hiện đại hóa các sản phẩm gốm sứ truyền thống của quê hương mình, tái tạo liên tục để đáp ứng với môi trường, xã hội, sự tương tác của nghệ nhân với thiên nhiên và lịch sử của chính họ. Ảnh: Vũ Như Quỳnh, Vietnam News.

Trên thực tế, khi cộng đồng tự xác định một cái gì đó đại diện cho di sản văn hóa của riêng mình thì chỉ, cho dù, và ở mức độ nào đó, những thứ liên quan phản ánh một cách thích hợp các đặc điểm và tính năng động của di sản đó.
 
Về phương diện này, xét trên thực tế, văn hóa phi vật thể là một THỰC THỂ SỐNG (hay gọi là văn hóa sống mà tôi hay nói, nhiều thứ có tuổi hàng ngàn năm) mà thực thể sống thì chúng có thể thay đổi. Nghĩa là một biểu hiện văn hóa có thể đại diện cho một nền văn hóa chỉ qua thời gian nếu một biểu hiện như vậy có khả năng tự sửa đổi song song với các biến đổi biểu thị đặc trưng cho toàn bộ văn hóa mà chúng là một phần.
 
Di sản văn hóa phi vật thể theo định nghĩa là một thực thể sống và khả năng của chúng liên tục tự thích nghi để đáp ứng với sự tiến hóa lịch sử và xã hội của những người tạo ra nó và những người kế thừa chúng đại diện cho một trong những đặc điểm phân biệt chính của chúng. Do đó, di sản văn hóa phi vật thể không được coi là một thứ gì đó được bảo tồn trong tủ kiếng hay hộp thủy tinh, như xảy ra đối với di sản vật thể quí giá, mà là một không gian văn hóa mà không gian văn hóa đó phải là đối tượng của chiến lược bảo vệ gấp đôi, nghĩa là vừa đồng thời thúc đẩy việc bảo tồn vừa thúc đẩy sự thích nghi liên tục của chúng với sự phát triển văn hóa của những người tạo ra chúng và những người kế thừa, nắm giữ chúng.
 
Đặc tính năng động (sự thay đổi, hoạt động hoặc tiến triển liên tục) này của di sản văn hóa phi vật thể rõ ràng có thể đặt ra vấn đề về mặt lý thuyết pháp lý. Trong thực tế, để hoạt động đúng, luật cần có một định nghĩa chính xác về thực thể được áp dụng và định nghĩa đó phải được đặc trưng bởi các yếu tố cấu thành cho phép người ta xác định chính xác đối tượng của quy tắc pháp lý bất cứ lúc nào.
 
Hãy xem lại Luật di sản văn hóa Việt Nam đã thay đổi như thế nào trong vòng hơn 10 năm qua.
 
Luật Di sản văn hóa số 28/2001/QH10 của Quốc hội định nghĩa di sản văn hóa phi vật thể như sau:
 
“1. Di sản văn hoá phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền thống, tri thức về y, dược học cổ truyền, về văn hoá ẩm thực, về trang phục truyền thống dân tộc và những tri thức dân gian khác.” Theo đó, chung ta thấy đây là một bản liệt kê các biểu hiện văn hóa phi vật thể có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học.
 
Đến năm 2013, Điều 4. Luật di sản Việt Nam định nghĩa như đã trích dẫn ở bài trước, xin chép lại:
 
“1. 2 Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác.”
 
Định nghĩa này chưa thực sự đầy đủ, chuẩn xác (ví dụ “Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần” chưa thật đúng mà đúng hơn là của cải, tài sản trí tuệ phi vật thể; toàn bộ các thực hành, cách thể hiện, cách diễn đạt, cũng như kiến thức và kỹ năng được truyền lại… Những biểu hiện vô hình ngoài vật thể văn hóa hữu hình) nhưng Luật di sản văn hóa năm 2013 đã làm rõ hơn về bản chất của di sản văn hóa phi vật thể dù không liệt kê các loại hình di sản phi vật thể cụ thể. Các cụm từ “gắn với cộng đồng hoặc cá nhân; bản sắc của cộng đồng; không ngừng được tái tạo; lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác…cho thấy sự “sửa đổi về luật pháp để luật phù hợp với những thay đổi về nhận thức đối với di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại và cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ di sản văn hóa. Để có sự nhận thức lại này Việt Nam mất 12 năm so với luật ban đầu và 10 năm so với năm đặt bút ký thông qua Công ước về bảo vệ di sản văn văn hóa phi vật thể tại Liên hợp quốc.
 
Tuy nhiên, đối với di sản văn hóa phi vật, nhiều người có thể tự hỏi hoặc đặt câu hỏi làm thế nào di sản văn hóa phi vật thể có thể liên tục bảo đảm chắc chắn việc tự nhận dạng và bảo vệ hoàn toàn toàn di sản đó nếu chúng cứ liên tục tự tái tạo, biển đổi. Nói cách khác, nếu bảo vệ được cấu trúc của một di sản văn hóa phi vật thể theo các yếu tố vật lý và văn hóa cụ thể hình thành di sản văn hóa phi vật thể ấy tại bất kỳ thời điểm nào, làm thế nào để việc bảo vệ này tiếp tục có hiệu lực khi các yếu tố đó thay đổi (đặc biệt là nếu chúng thay đổi liên tục)?
 
Trong thực tế, đặc tính này của di sản văn hóa phi vật thể sẽ không gây trở ngại cho việc bảo vệ chúng đúng cách. Nếu không thay đổi chúng dĩ nhiên sẽ tự chết và việc bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể không còn nữa. Do đó để tự nhận dạng, tự xác định một di sản văn hóa phi vật thể, việc thay đổi các yếu tố cấu thành di sản văn hóa phi vật thể phải thường xuyên. Yêu cầu này cần đặc biệt lưu ý. Khi một di sản văn hóa phi vật thể thay đổi một hay nhiều yếu tố cấu thành di sản đó, các cộng đồng sẽ tự động xem xét và nhận dạng.
 
Khác với các di sản văn hóa vật thể bị “bắt chết” tại một thời điểm, di sản văn hóa phi vật thể là năng động, thích nghi liên tục với lịch sử, xã hội, tương tư như tấm ảnh bắt dừng một khoảnh khắc trong đời người nhưng con người ấy vẫn đi, lớn lên và thay đổi từng giây, từng phút ngay sau đó. Do đó về luật pháp, việc thay đổi các yếu tố cấu thành của chúng cũng phải tiến hành thường xuyên.
 
Nói cách khác, nếu bảo vệ được cấu trúc - trong các yếu tố và chiến lược của di sản văn hóa phi vật thể - theo các yếu tố vật lý và văn hóa cụ thể hình thành di sản văn hóa phi vật thể tại bất kỳ thời điểm nào, làm thế nào để việc bảo vệ này tiếp tục có hiệu lực khi các yếu tố đó thay đổi (đặc biệt là nếu chúng thay đổi liên tục)? Trong thực tế, đặc tính này của di sản văn hóa phi vật thể sẽ không gây trở ngại cho việc bảo vệ chúng đúng cách.
 
Ngay việc ‘bảo vệ” nêu ra ở đây cũng không được coi là tương đương hoặc giống với “bảo vệ” theo nghĩa như người bảo vệ, rào chắn bảo vệ cứng ngắt…; ngược lại, nó bao hàm một khái niệm năng động hơn, nghĩa là các hành động quốc gia và quốc tế nên đơn giản là cung cấp một môi trường thuận lợi (không gian và cơ chế…), trong đó di sản văn hóa phi vật thể được phép tự do lưu chuyển theo mong đợi và nhu cầu của người, cộng đồng tạo ra nó và người mang chúng. Nói cách khác, luật pháp cần làm đúng để bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể là tạo điều kiện cho những người, cộng đồng tạo ra chúng hoặc những người nắm giữ chúng không bị bất kỳ ảnh hưởng nào để phát triển di sản phi vật thể của họ, tránh các khả năng can thiệp từ bên ngoài của các thể chế quản lý, hay áp đặt ý chí dựa vào quyền lực cá nhân trong xã hội, có thể làm hỏng quá trình tiến hóa tự phát này. Ngay tại Mỹ, việc đấu tranh để giữ các di sản văn hóa, bản sắc văn hóa như ngôn ngữ, tập tục của người bản địa vẫn còn tiếp tục cho đến nay.
 
Bằng cách làm theo cách tiếp cận như vậy, luật pháp có thể cung cấp đầy đủ sự bảo vệ đúng đắn và lâu dài cho di sản văn hóa phi vật thể mặc dù bản chất di sản văn hóa phi vật thể liên tục thay đổi. Điều này cũng nói lên rằng, bất chấp sự thay đổi về chính trị, thể chế hoặc nền kinh tế di sản văn hóa của một dân tộc vẫn SỐNG phù hợp với thời đại.
 
Rất tiếc, chúng ta sẽ thấy dưới đây, Công ước về bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể chưa hoàn toàn đáp ứng các điều kiện cần thiết để thực hiện việc bảo vệ theo hướng tiếp cận này.
 
Bảo vệ an toàn di sản văn hóa phi vật thể nhưng không đóng băng chúng. Để được giữ chúng sống, di sản văn hóa phi vật thể phải phù hợp với cộng đồng của nó, liên tục được tái tạo và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Có nguy cơ các yếu tố nhất định của di sản văn hóa phi vật thể có thể chết hoặc biến mất nếu không có sự giúp đỡ, trong khi yêu cầu bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể không có nghĩa là sửa chữa hoặc đóng băng chúng trong một số hình thức nguyên thủy hoặc giữ tinh khiết chúng. Cho đến thời điểm này những mong muốn khôi phục nguyên bản các di sản văn hóa phi vật thể vẫn còn xuất hiện khá nhiều trên các diễn đàn hoặc các cuộc vận động bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể. Chính điều này góp phần làm mai một di sản vì mất khả năng thay đổi. Tương tự như những người giáo điều thích “tầm chương trích cú” chỉ tin vào câu chữ, văn chương xưa, mà không chú trọng đến nội dung đã thay đổi do môi trường, kinh tế xã hội thay đổi. Ví dụ, tục nhuộm răng đen để bảo vệ răng không còn vì có một thứ khác đã thay vào để bảo vệ hàm răng bền chắc hơn; câu “nhất nam viết hữu thập nữ viết vô” trở nên xa lạ trước bình đẳng giới…
 
Một đặc điểm hết sức quan trọng, bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể cụ thể là thúc đẩy việc chuyển giao kiến thức, kỹ năng và ý nghĩa của di sản. Truyền tải - hoặc truyền đạt di sản từ thế hệ này sang thế hệ khác - được nhấn mạnh chứ không phải chỉ có thúc đẩy sản xuất các biểu hiện cụ thể như sáng tác nhiều điệu múa, bài hát, nhạc cụ truyền thống, chiếc áo dài truyền thống hoặc hàng thủ công... Sự thiếu sót này đã gần như cắt mất tương lai, thậm chí dẫn đến cái chết của di sản văn hóa phi vật thể và tước đi quyền lợi của thế hệ kế thừa, làm nghèo bản sắc dân tộc. Thiên chức của nghệ nhân, người nắm giữ và thực hành di sản là truyền dạy cho thế hệ kế tiếp.
 
Do đó, ở phạm vi rộng lớn, bất kỳ biện pháp bảo vệ an toàn nào đều đề cập đến việc củng cố và làm vững chắc thêm các tình huống đa dạng và thay đổi, hữu hình và vô hình. Điều đó là cần thiết cho sự tiến hóa liên tục và giải thích di sản văn hóa phi vật thể, cũng như để truyền lại cho các thế hệ tương lai.
 
Các biện pháp bảo vệ để đảm bảo rằng di sản văn hóa phi vật thể có thể được truyền từ thế hệ này sang thế hệ tiếp theo khác đáng kể so với các biện pháp cần thiết để bảo vệ di sản hữu hình (tự nhiên và văn hóa). Tuy nhiên, một số yếu tố của di sản hữu hình thường gắn liền với di sản văn hóa phi vật thể. Đó là lý do tại sao Công ước bao gồm, trong định nghĩa về di sản văn hóa phi vật thể, các công cụ, đồ vật, đồ tạo tác và không gian văn hóa gắn liền với nó.
 
Điều này có nghĩa là di sản phi vật thể có phải luôn được bảo vệ, hoặc được hồi sinh bằng bất cứ giá nào? Như bất kỳ cơ thể sống nào, chúng tuân theo một vòng đời và do đó một số yếu tố có khả năng biến mất sau khi sinh ra các hình thức biểu hiện mới. Có thể có một số hình thức di sản văn hóa phi vật thể, kể cả khi chúng còn có giá trị kinh tế, không còn được coi là có liên quan hoặc có ý nghĩa cho chính cộng đồng. Như đã nêu trong Công ước, chỉ có di sản văn hóa phi vật thể được cộng đồng công nhận là của họ và điều đó cung cấp cho họ ý thức về bản sắc và sự liên tục sẽ được bảo vệ. Theo “nhận thức” của Công ước, một quy trình chính thức hoặc thường xuyên hơn, các cộng đồng thừa nhận rằng các thực tiễn, biểu diễn, biểu hiện, kiến thức và kỹ năng cụ thể và, nếu phù hợp, các công cụ, đồ vật, đồ tạo tác và không gian văn hóa phù hợp… là một phần của di sản văn hóa của họ.
 
Các biện pháp bảo vệ phải luôn được phát triển và áp dụng với sự đồng ý và tham gia của chính cộng đồng. Trong một số trường hợp nhất định, sự can thiệp của cộng đồng để bảo vệ di sản cộng đồng có thể là điều không mong muốn, vì nó có thể làm sai lệch giá trị mà di sản đó mang lại cho cộng đồng. Hơn nữa, các biện pháp bảo vệ phải luôn tôn trọng các tập quán thông thường về quản lý quyền truy cập vào các khía cạnh cụ thể của di sản đó, ví dụ, các biểu hiện di sản văn hóa phi vật thể thiêng liêng hoặc những điều được coi là bí mật.
 
(Còn nữa)

Bài có thể bạn quan tâm

0 Bình luận