Cần một tầm nhìn chiến lược đối với nghệ nhân làng nghề
Lễ Phong tặng danh hiệu nghệ nhân và các danh hiệu làng nghề Việt Nam lần thứ X- năm 2022 (22/11/2022). |
CGCC VŨ QUỐC TUẤN
Chủ tịch Hội đồng Tư vấn-Hiệp hội Làng nghề Việt Nam
Trong
các làng nghề nước ta, đội ngũ nghệ nhân có vai trò rất quan trọng: là người
lưu giữ, truyền bá và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của nghề thủ
công nước ta. Tiếp nối công lao từ các vị Tổ nghề thời trước, đội ngũ các thế hệ
nghệ nhân là niềm tự hào của làng nghề chúng ta. Hiệp hội Làng nghề Việt Nam
chúng ta cũng cần chủ động trong việc xây dựng một hệ thống chính sách toàn diện
thể hiện tầm nhìn chiến lược để khẳng định vai trò của nghệ nhân và phát huy trí
tuệ, tài năng của họ.
ỨNG XỬ VỚI NGHỆ NHÂN CÒN
NHIỀU BẤT CẬP
Lâu nay, chúng ta thường tôn vinh nghệ nhân làng nghề với
danh xưng “Báu vật nhân văn sống”. Tuy nhiên, trong thực tế, vẫn chưa thấy những
hoạt động xứng tầm thể hiện rõ nhận thức về giá trị của “báu vật”; vì vậy, trước
tiên, xin nhắc lại nội dung khái niệm “Báu vật nhân văn sống”. Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO), “Báu vật nhân văn sống
là những người có kiến thức và kỹ thuật ở cấp độ rất cao cần thiết cho việc thực
hành hay sáng tạo các yếu tố của di sản văn hóa phi vật thể mà các quốc gia
thành viên đã lựa chọn như một bằng chứng cho truyền thống văn hóa sống của
mình và cho tinh thần sáng tạo của các nhóm, các cộng đồng và các cá nhân hiện
diện trên đất nước mình”. Khái niệm này được đưa ra trong Khuyến nghị của UNESCO về việc Bảo vệ văn
hóa cổ truyền và văn hóa dân gian được thông qua tại kỳ họp của Đại
hội đồng UNESCO lần thứ 25 ở Paris (Pháp) vào ngày 15.11.1989. Khái niệm “Báu vật nhân văn sống” tiếp
tục được sử dụng tại điều 2 của Công
ước về Bảo vệ Di sản Văn hóa phi vật thể do Đại hội đồng UNESCO
thông qua vào năm 2003. Đến nay, hơn 80 quốc gia thành viên của UNESCO (trong
đó có Việt Nam) đã tham gia và phê chuẩn công ước này.
Trên
thế giới, Nhật Bản là quốc gia đầu tiên đề ra chính sách tôn vinh Báu vật nhân văn sống. Luật Văn hóa tài bảo hộ pháp (Bảo vệ tài sản văn hóa) do chính phủ
Nhật Bản ban hành năm 1950 đã sử dụng thuật ngữ “Trọng yếu vô hình văn hóa
tài bảo đặc giả” để chỉ “những
cá nhân (hoặc nhóm người) đang nắm giữ và phổ biến những kỹ năng và bí quyết nhằm
lưu truyền những tài sản văn hóa phi vật thể quan trọng của đất nước cho các thế
hệ tương lai”. Từ sau năm 1955, người Nhật thường sử dụng khái niệm “Nhân
gian quốc bảo” để thay thế cho thuật ngữ trên, không chỉ dành cho những cá
nhân có cống hiến kiệt xuất mà còn dành cho những nhóm người đang nắm giữ, bảo
tồn và truyền dạy cho cộng đồng những kỹ năng và bí quyết nghề nghiệp có nguy
cơ thất truyền.
Tại Hàn Quốc, năm 1964, chính phủ Hàn
Quốc bổ sung vào Đạo luật số 961 về Bảo vệ Tài sản Văn hóa (ban
hành năm 1962) thuật ngữ “Bảo thủ giả” (người có bàn tay quý giá) để
chỉ “những người (hay nhóm
người) đang nắm giữ những tài sản văn hóa phi vật thể có giá trị về mặt lịch
sử, nghệ thuật và học thuật”. Sau này, phỏng theo mô hình Nhật Bản, Hàn
Quốc thường sử dụng thuật ngữ “Nhân gian văn hóa giả” thay cho thuật
ngữ “Bảo thủ giả” đã sử dụng trong các văn bản trước đây. Hiện nay,
Hàn Quốc gọi “Living National Treasure” (Bảo vật quốc gia sống), giống như Nhật
Bản, Philippines, Campuchia.
Có
thể thấy từ rất sớm, Nhật Bản và Hàn Quốc đã đặc biệt coi trọng nghệ nhân; họ
đã có những chính sách bảo vệ và phát huy nghệ nhân cùng với nhiều chính sách
khác nhằm phát huy vốn văn hóa dân tộc, tạo nên ‘sức mạnh mềm” của hai nước
này, như chúng ta đã biết. Ngoài
ra, trên thế giới, cũng đang có nhiều cách tôn vinh nghệ nhân bằng danh hiệu
khác nhau, như: Bậc thầy nghệ thuật (Maître d’art, Pháp), Người mang truyền
thống thủ công dân gian (Bearer of Popular Craft Tradition, Cộng hòa Séc),
National Artist (Nghệ sĩ quốc gia, Thái Lan), Giải thưởng Te Waka Toi (New
Zealand), v.v...
Ở
nước ta, với nhận thức về giá trị của nghề thủ công - “di sản văn hóa phi vật
thể”, Nhà
nước đã ban hành Luật Di sản văn hóa (2001, 2009, 2013) và thực hiện một số
chính sách để bảo vệ, bồi dưỡng, tôn vinh và phát huy nghệ nhân; một số tổ chức
xã hội đã tham gia. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có một văn bản pháp quy riêng
về nghệ nhân thủ công; những chính sách hiện hành được quy định lẻ tẻ, còn thiếu
toàn diện, chưa đủ tầm để hình thành đội ngũ nghệ nhân nghề thủ công một cách bền
vững trong làng nghề nước ta.
Thực tiễn đòi hỏi nâng cao
nhận thức và khẳng định sâu sắc hơn nữa giá trị của nghệ nhân. Họ là niềm vinh
dự, tự hào của làng nghề chúng ta. Đó là vì: (i) Nghệ nhân nghề thủ công là người
mang trong mình tinh hoa văn hóa truyền thống của nghề thủ công; họ không chỉ góp phần vào nền
văn hóa đậm đà bản sắc của dân tộc, phát triển công nghiệp văn hóa, mà góp phần
đưa văn hóa Việt Nam ra thế giới; (ii) Nhiều nghệ nhân đang say mê, tâm huyết sáng
tạo nhiều sản phẩm mới, phát huy những giá trị nghề thủ công truyền thống lên một
tầm cao mới, đáp ứng yêu cầu của thị trường; (iii) Sản phẩm thủ công mỹ nghệ của
nghệ nhân là kết tinh của tâm hồn, trí tuệ và kỹ năng được mài dũa đến tinh tế
của nghệ nhân, luôn luôn đổi mới, sáng tạo không có điểm dừng; ngày nay, dù có
sử dụng máy móc hoặc công nghệ 4.0 trong một số công đoạn, song nghệ nhân vẫn
là người “thổi hồn” vào sản phẩm; (iv) Nghệ nhân đang là người gần như duy nhất
truyền dạy kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm thực tiễn cho lớp thợ giỏi, đào tạo
đội ngũ kế tiếp bảo đảm tiếp nối truyền thống và sáng tạo văn hóa nghề thủ công
nước ta.
Sôi
nổi nhất trong thời gian qua là các cuộc phong tặng danh hiệu nghệ nhân. Những
nghệ nhân có thực tài đều mong muốn tài năng của mình được xã hội công nhận,
coi đó là “thương hiệu” của mình; địa phương cũng vinh dự vì có nghệ nhân được
phong tặng; do đó, việc phong tặng các danh hiệu nghệ nhân là cần thiết, đáp ứng
yêu cầu chính đáng của nghệ nhân. Song đáng tiếc là có nơi đã lợi dụng yêu cầu
này, tổ chức những cuộc phong tặng thực chất là “mua-bán”, “thương mại hóa” danh hiệu nghệ nhân với những mánh lới,
thủ đoạn trục lợi lộ liễu hoặc tinh vi; nhiều cuộc đã bị báo chí phê phán.
Trong
thực tế, đang có xu hướng chỉ quan tâm tìm nghệ nhân đã có thành tích để tôn
vinh, khen thưởng theo kiểu “ăn sẵn”, thể hiện một tầm nhìn hạn hẹp, đầu óc thực
dụng, chỉ chú ý khai thác phần ngọn, lại không đủ kiến thức để thực hiện những
công việc cần làm từ gốc: trước, trong và sau tôn vinh, để bảo đảm hình thành đội
ngũ nghệ nhân một cách bài bản, căn cơ, bền vững. Sau những cuộc phong tặng nặng
về hình thức, rộn ràng “loa, đèn, kèn, trống”, nghệ nhân lại bị rơi vào quên
lãng.
CẦN MỘT TẦM NHÌN CHIẾN
LƯỢC
Bài
viết này đề xuất một “tầm nhìn chiến lược” đối với nghệ nhân làng nghề, cũng tức
là yêu cầu một hệ thống cơ chế, chính sách đúng tầm đối với nghệ nhân nghề thủ
công làng nghề - người mang giá trị văn hóa, hồn cốt của làng nghề cần được
trân quý, bảo vệ, tri ân và phát huy. Đó là những chương trình, kế hoạch toàn
diện xuyên suốt cả quá trình, từ bồi dưỡng, đào tạo, hình thành nghệ nhân tại mỗi
cơ sở đến phát huy nghệ nhân trong cuộc sống, bảo đảm một đội ngũ nghệ nhân nghề
thủ công đủ đức và tài, có trí tuệ, tài năng và trách nhiệm trong việc bảo tồn và
phát huy các giá trị của nghề thủ công truyền thống Việt Nam, đồng thời giới
thiệu các giá trị nghề thủ công nước ta hội nhập với thế giới. Một tầm nhìn chiến
lược như thế – cũng có thể gọi là “tầm nhìn văn hóa” là rất cần thiết đối với
các cơ quan nhà nước cũng như của các tổ chức xã hội-nghề nghiệp trong việc xây
dựng và thực hiện một cách bài bản hệ thống chính sách, chương trình, kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng, khen thưởng và phát huy đội ngũ nghệ nhân làng nghề nước ta.
Làm
được như vậy chính là quán triệt, thực hiện chủ trương về phát huy vai trò của
nghệ nhân trong “Chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề Việt Nam giai đoạn
2021-2030” đã được Chính phủ phê duyệt ngày 7/7/2022: “Duy trì và phát triển đội
ngũ nghệ nhân, thợ giỏi, tạo nòng cốt thúc đẩy công tác đào tạo, truyền nghề,
thực hành nghề thủ công truyền thống, lan tỏa các giá trị của di sản văn hóa
nghề truyền thống trong cộng đồng, đặc biệt đối với thế hệ trẻ; bảo tồn, phát
triển kỹ năng nghề truyền thống, sáng tạo thêm nhiều sản phẩm, tác
phẩm mới có giá trị”. Hiệp hội Làng nghề Việt Nam chúng ta rất nên có sự đóng
góp xứng đáng trong việc này.
Dưới
đây, xin nêu lên một số kiến nghị cụ thể.
Một là, có kế hoạch đào tạo nghệ nhân ngay từ cơ sở
và liên tục hoàn thiện tri thức và kỹ năng nghề cho nghệ nhân. Thực tế cho
thấy việc đào tạo nghệ nhân phải bắt đầu ngay từ gốc, trong mỗi cơ sở sản xuất
làng nghề bằng một kế hoạch cụ thể, căn cơ. Lao động trong cơ sở cần được bồi
dưỡng kiến thức, kỹ năng để làm tốt công việc của mình. Thợ giỏi cần được phát
hiện và bồi dưỡng thành nghệ nhân. Nghệ nhân cần được bồi dưỡng bằng nhiều hình
thức phù hợp để tăng thêm kiến thức, bổ sung kỹ năng mới, ứng dụng công nghệ
4.0 trong công việc, v.v... Mỗi cơ sở phải
là một “vườn ươm” nghệ nhân cho làng nghề cả nước. Chỉ có quan tâm từ gốc như
thế, mới có thể hình thành đội ngũ nghệ nhân một cách bền vững.
Quang cảnh buổi lễ bế mạc lớp truyền dạy nghề dệt thủ công truyền thống tại làng Đăk Gô, xã Đăk Kroong. |
Việc
bồi dưỡng, hoàn thiện tri thức và kỹ năng nghề cho nghệ nhân phải được tiến
hành có kế hoạch thường xuyên, liên tục. Đội ngũ nghệ nhân làng nghề hiện đang
có nhiều lớp khác nhau: có những nghệ nhân ở tuổi 70-80, những nghệ nhân khoảng
50-60 tuổi, lại có những nghệ nhân ở độ tuổi 30-40; mỗi độ tuổi có thế mạnh, chỗ
yếu khác nhau. Lớp cao tuổi thường được đào tạo tại chỗ, theo kiểu truyền miệng
“cha truyền, con nối”, trưởng thành chủ yếu bằng kinh nghiệm bản thân. Lớp
trung niên có nhiều người được học tập bài bản, qua các trường, lớp mỹ thuật
công nghiệp; cũng có một số trưởng thành do nghệ nhân hoặc cha, anh hướng dẫn tại
chỗ. Các lớp nghệ nhân này cần được liên tục bồi dưỡng không chỉ về kiến thức,
kỹ năng mỹ thuật công nghiệp một cách bài bản kịp với sự phát triển của khoa học,
kỹ thuật hiện đại, mà quan trọng nhất, chính là ý chí, khát vọng nối tiếp và
phát huy tinh hoa nghề thủ công của dân tộc, đưa nghề thủ công nước ta hội nhập
xứng đáng với thế giới.
Tình
hình mới với những yêu cầu mới của thị trường cũng đang đòi hỏi nghệ nhân những
nhận thức, kiến thức mới, nhất là trong xu hướng “sản xuất xanh”, “tiêu dùng
xanh” thân thiện với môi trường. Trên thế giới, trước những khó khăn về năng lượng,
lạm phát, lương thực, tác động của đại dịch Covid-19 ... người tiêu dùng đang
phải tính lại các khoản chi tiêu; nhu cầu về hàng thủ công mỹ nghệ cũng khác
trước. Nghệ nhân phải được thông tin, nắm được sự chuyển biến của thị trường trong
nước cũng như nước ngoài để đổi mới, sáng tạo trong thiết kế, hình thành sản phẩm
phù hợp.
Hai là, tạo không gian thuận lợi cho nghệ nhân phát
huy tài năng, sáng tạo. Nếu như bản chất của nghề thủ công là sáng tạo và
sáng tạo không điểm dừng, thì nghệ nhân cũng luôn luôn sáng tạo, sáng tạo suốt
đời. Nghệ nhân gắn bó với cơ sở sản xuất làng nghề ngay từ khi còn là lao động
phổ thông và từ trong lao động sáng tạo mà trưởng thành. Vì vậy, cơ sở sản xuất
làng nghề phải là nơi nuôi dưỡng tâm hồn, khơi dậy ý chí và tạo môi trường thuận
lợi cho nghệ nhân sáng tạo.
Để
trợ giúp nghệ nhân trong nghiên cứu, sáng tạo mẫu mã mới, kiểu dáng mới cho sản
phẩm thủ công mỹ nghệ, rất cần những trợ giúp cụ thể, từ nguyên vật liệu, thời
gian và chi phí. Cần tổ chức các nhóm nghệ nhân cùng nghiên cứu một chuyên đề
(gồm nghệ nhân trong cơ sở hoặc liên kết với nghệ nhân cơ sở khác) để cùng bổ
sung cho nhau trong nghiên cứu. Giúp tổ chức các cuộc giao lưu, trao đổi kinh
nghiệm giữa các nghệ nhân cùng nghề trong địa phương hoặc trong vùng. Cũng nên
thành lập các câu lạc bộ nghệ nhân (theo nghề nghiệp và theo vùng) làm nơi chia
sẻ kinh nghiệm, học tập lẫn nhau. Báo chí cần tuyên truyền, giới thiệu đầy đủ
hơn các sáng kiến, sáng tạo, sản phẩm mới của nghệ nhân.
Ba là, chăm lo đời sống vật chất của nghệ nhân.
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 109/2015/NĐ-CP ngày
28/10/2015 về việc hỗ trợ đối với nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú được Nhà
nước phong tặng có thu nhập thấp, hoàn cảnh khó khăn về các mặt như: trợ cấp
khó khăn hằng tháng; bảo hiểm y tế; chi phí mai táng và giao Bộ Lao động-Thương
binh và Xã hội chủ trì thực hiện. Tuy nhiên, đến nay, số nghệ nhân được hưởng
các hỗ trợ này chưa nhiều; phạm vi chính sách cũng còn hẹp, thủ tục có phần rườm
rà. Cũng chưa có các chính sách chăm lo đời sống vật chất đối với nghệ nhân do
các tổ chức xã hội-nghề nghiệp phong tặng. Đây là một thiếu sót lớn cần được khắc
phục, Nghị định 109/2015 cũng cần được bổ sung, sửa đổi. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh
trách nhiệm trước hết là của các cơ sở trong toàn bộ công việc chăm sóc đời sống,
chữa trị bệnh cho nghệ nhân; cũng không chỉ dựa vào nguồn ngân sách nhà nước,
mà cần có sự chung tay của các tổ chức xã hội-nghề nghiệp.
Có
những hoạt động có thể triển khai để mang lại thu nhập cho nghệ nhân, đó là:
(i) đưa sản phẩm của nghệ nhân vào trưng bày và bán tại các cuộc hội chợ, triển
lãm (kể cả trong nước và ra nước ngoài); nghệ nhân được miễn, giảm một số chi
phí; (ii) giúp nghệ nhân tổ chức triển lãm cá nhân, qua đó, nghệ nhân trực tiếp
giới thiệu giá trị của sản phẩm, thao tác tại chỗ, ký tên vào sản phẩm, hoặc hướng
dẫn du khách thực hành trải nghiệm; (iii) một số nghệ nhân biết ngoại ngữ có thể
được mời làm hướng dẫn viên du lịch khi có khách du lịch tham quan cơ sở làng
nghề.
Bốn là, tổ chức tôn vinh, xét duyệt các danh hiệu
công khai, minh bạch, đúng thực chất.
Có
thể khẳng định: danh hiệu “nghệ nhân” tự thân đã là một giá trị văn hóa; danh
hiệu “nghệ nhân làng nghề” cần phải được ứng xử với tư cách là một giá trị văn
hóa của cộng đồng làng nghề, một chuẩn mực của xã hội. Khi cộng đồng thừa nhận,
xã hội tôn vinh thì danh hiệu đó sẽ có sức lan tỏa sâu rộng trong làng nghề;
ngược lại, lạm dụng quá mức, phong tặng tràn lan sẽ dẫn đến loạn danh hiệu. Khi
đó, danh hiệu không những trở nên ít ý nghĩa, kém giá trị, không chỉ gây phản cảm
trong cộng đồng làng nghề mà còn làm đảo lộn các giá trị văn hóa của xã hội. Vì
vậy, việc khen thưởng, tôn vinh nghệ nhân cần được thực hiện hết sức cẩn trọng.
Trong
làng nghề chúng ta, nghề nào cũng có những nghệ nhân đáng được tôn vinh. Nhà nước
ta đã có Nghị định số 123/2014/NĐ-CP ngày 25/12/2014 của
Chính phủ về việc xét tặng danh hiệu “Nghệ nhân Nhân dân", “Nghệ nhân ưu
tú” trong lĩnh vực nghề thủ công mỹ nghệ và giao cho Bộ Công thương chủ trì. Từ
năm 2010 đến năm 2020, đã có 22 nghệ nhân nhân dân và 192 nghệ nhân ưu
tú được Nhà nước phong tặng (theo số liệu của Bộ Công thương). Tuy nhiên, việc xét tặng danh hiệu này còn thiếu vắng sự tham gia đầy đủ của
các tổ chức xã hội-nghề nghiệp liên quan đến nghề của nghệ nhân được xét tặng;
do vậy, việc xét duyệt có thể chưa thật sát đúng. Thủ tục có phần rườm rà, khó
thực hiện, nhất là đối với nghệ nhân làng nghề cao tuổi.
Thời gian qua, đã có nhiều
tổ chức xã hội-nghề nghiệp thực hiện các hình thức tôn vinh nghệ nhân. Riêng Hiệp
hội Làng nghề Việt Nam, từ năm 2001 đến 2019, qua chín lần tổ chức, đã phong tặng
835 nghệ nhân, 115 bảng vàng gia tộc nghề truyền thống. Song nhìn chung, việc xét phong tặng ở các tổ chức
xã hội-nghề nghiệp cũng còn nhiều bất cập, yếu kém.
Cần
khẳng định: việc xét duyệt, phong tặng các danh hiệu nghệ nhân nghề thủ công làng
nghề phải nhằm mục đích là: biểu dương, tri ân gắn với trao trách nhiệm, khắc
phục những tiêu cực đang làm giảm ý nghĩa cao quý của việc tôn vinh. Do vậy, cần
đổi mới tư duy, tổ chức lại toàn bộ hệ thống khen thưởng theo các hướng như
sau: (i) Có bộ tiêu chí cụ thể, sát hợp từng đối tượng, ngành nghề; thủ tục
đăng ký, đề nghị xét thưởng cần đơn giản, dễ thực hiện; (ii) Tiến hành công
khai, minh bạch từ cơ sở, có sự giám sát của cộng đồng; (iii) Đối với một số
nghệ nhân có đủ tiêu chí, nhưng vì lý do nào đó mà chưa đăng ký (do già yếu, do
không nắm được thông tin về tổ chức phong tặng, v.v...), các tổ chức xã hội-nghề
nghiệp cần tìm hiểu, giúp đỡ họ đăng ký; (iv) Nhà nước nên chuyển giao việc
phong tặng các danh hiệu nghệ nhân ở cấp cơ sở, cấp ngành nghề cho các tổ chức
xã hội-nghề nghiệp thực hiện; (v) Nhà nước
phong tặng danh hiệu cao quý nhất trên cơ sở đề xuất của các tổ chức xã hội-nghề
nghiệp, kèm theo là cấp các loại huân chương tương xứng.
Năm là, phát huy nghệ nhân trong giảng dạy, truyền
nghề. Lâu nay, một số nghệ nhân được mời tham gia truyền nghề tại địa
phương hoặc giảng dạy tại các lớp tập huấn do nhà nước tổ chức, được mời hướng
dẫn quy trình sản xuất, công nghệ thao tác tại các làng nghề, nhưng trong thực
tế, số lượng này chưa nhiều. Quyết định 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 phê duyệt Đề án “Đào tạo
nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” và Quyết định số 971/QĐ-TTg ngày 01/7/2015 sửa đổi, bổ sung Quyết định số 1956/QĐ-TTg
vẫn có nhiều khiếm khuyết.
Qua
khảo sát tại các làng nghề cho thấy, để phát huy vai trò của nghệ nhân trong việc
giảng dạy, truyền nghề, cần có sự đổi mới toàn diện công tác dạy nghề cho lao động
nông thôn. Đó là: (i) Nâng cao hơn nữa nhận thức về tầm quan trọng của việc đào
tào nghề cho lao động nông thôn gắn với tạo việc làm, thực hiện phong trào khởi
nghiệp của thanh niên nông thôn; (ii) Các cơ quan chuyên ngành, các cơ sở đào tạo
nghề xây dựng kế hoạch đào tạo nghề lao động gắn với yêu cầu của các cơ sở sản
xuất, kinh doanh làng nghề; (iii)Tổ chức biên soạn các bộ giáo trình đào tạo
các nghề cơ bản về kiến thức, kỹ thuật nghề phục vụ cho đào tạo nghề ở các làng
nghề gắn liền với các nghệ nhân bậc thầy trong đào tạo kỹ năng chế tác; (iv) Tăng
cường trang bị máy móc, thiết bị, phương tiện phục vụ cho giảng dạy, học tập; (v)
Có các chính sách đãi ngộ đúng mức đối với các
nghệ nhân tham gia đào tạo, truyền nghề. Thực hiện các quy định
trong Nghị dịnh 52/2018/NĐ-CP
ngày 12/4/2018 về phát triển ngành nghề nông thôn: “Các nghệ nhân trong lĩnh vực ngành nghề nông
thôn được Nhà nước hỗ trợ kinh phí tổ chức đào tạo nghiệp vụ sư phạm nghề nghiệp,
kỹ năng dạy học; được thù lao theo
quy định khi tham gia đào tạo nghề nghiệp cho lao động
nông thôn. Khi nghệ nhân trực tiếp truyền nghề được thu tiền học phí của người
học trên nguyên tắc thỏa thuận”.
Cũng
xin nói thêm là việc phát huy nghệ nhân trong đào tạo, truyền nghề lại càng cấp
thiết, vì có những nghệ nhân có kiến thức đã lớn tuổi, cần được khai thác kịp
thời trước khi các cụ ra đi; đồng thời lại có những nghề thủ công có nguy cơ thất
truyền, cần có các nghệ nhân nắm được nghề này tham gia trình diễn làm tư liệu
cho đời sau.
Tóm
lại, trên đây là những vấn đề rút ra từ thực tiễn, đề xuất một tầm nhìn chiến
lược về nghệ nhân, để việc biểu dương, tri ân và phát huy những “báu vật nhân
văn sống” này được thể hiện cụ thể trong cuộc sống, một việc mà nhiều nước trên
thế giới đã thực hiện trước ta hàng chục năm. Xin kiến nghị Hiệp hội Làng nghề
Việt Nam chủ động xây dựng một đề án tạm gọi là “Đề án về Đào tạo và phát huy
nghệ nhân làng nghề” để cùng các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội – nghề
nghiệp khác thảo luận và triển khai, góp phần hình thành hệ thống cơ chế, chính
sách xứng tầm chiến lược xây dựng một cách bền vững đội ngũ nghệ nhân làng nghề
nước ta.
(Đã
đăng Tạp chí Làng nghề Việt Nam.
số
46/2022, ngày 18/11/2022)
0 Bình luận